Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn
giáo- tín ngưỡng của Liên hiệp quốc, ông Heiner Bielefeldt
UN.org
Báo
cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo- tín ngưỡng hôm nay họp
báo tại Hà Nội về chuyến công tác suốt 11 ngày qua ở Việt Nam.
Tin
lề phải và lề trái
Truyền
thông trong nước loan tin về việc tiếp đón của những bộ ngành và các tổ chức
tôn giáo nằm trong hệ thống Nhà nước đối với phái đoàn do báo cáo viên đặc biệt
về tự do tôn giáo- tín ngưỡng của Liên hiệp quốc, ông Heiner Bielefeldt, dẫn
đầu đến làm việc ở Việt Nam từ ngày 21 đến 31 tháng 7.
Đó
là những cuộc gặp ở Hà Nội vào các ngày đầu làm việc của phái đoàn với đại diện
Bộ Tư Pháp, Bộ Giáo dục- Đào tạo Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ. Và tiếp đó
là gặp Ủy ban Đoàn Kết Công giáo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tuy
nhiên, thông tin về những cuộc gặp của báo cáo viên đặc biệt Liên hiệp quốc với
đại diện của những giáo hội không chịu sự quản lý của Nhà Nước chỉ có thể tìm
thấy trên những trang mạng thông tin ‘lề trái’.
Từ
ngày 28 đến 30 ông (Heiner Beilefeldt) không được gặp những tôn giáo đó
vì ông ta khẳng định là bị an ninh, công an theo dõi, ông nhấn mạnh đó là sự vi
phạm nguyên tắc giữa đôi bên khi mời ông đến Việt Nam.
Tại
Sài Gòn, phái đoàn có cuộc gặp với đại diện của Hội đồng Liên tôn gồm các tôn
giáo như Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành
Mennonite Tư gia, Công giáo. Một số vị thuộc hội đồng này đã không đến được
cuộc gặp vì bị lực lượng an ninh ngăn chặn ngay tại nhà họ từ ngày hôm trước
như các mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Hoàng Hoa…
Ngăn
chặn gặp những nhóm giáo hội ngoài quốc doanh
Thông
tin cho biết phái đoàn muốn về An Giang để gặp nhóm Phật giáo Hòa Hảo không
theo Nhà Nước nhưng rồi phải quay về. Điều này được chính ông Heiner Beilefeldt
nêu ra tại cuộc họp báo ngày 31 tháng 7 và anh Paolo Thành Nguyễn, một người
tham dự, cho biết lại:
Ban Tôn giáo Chính phủ tiếp Báo cáo
viên Đặc biệt về Tự do Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng của Liên hợp quốc ngày
22/7/2014, tại trụ sở Ban Tôn giáo Chính phủ (danluan.org)
Từ
ngày 28 đến 30 ông không được gặp những tôn giáo đó vì ông ta khẳng định là bị
an ninh, công an theo dõi, ông nhấn mạnh đó là sự vi phạm nguyên tắc giữa đôi
bên khi mời ông đến Việt Nam.
Chuyến
đi thăm bà vợ của mục sư Tin Lành Lutheran Nguyễn Công Chính, người hiện đang
phải thụ án tù 11 năm, cũng không thể thực hiện được như thông tin từ luật sư
Nguyễn Văn Đài cho biết:
Vợ
của mục sư Nguyễn Công Chính theo kế hoạch được ông đặc sứ Liên hiệp quốc về tự
do tôn giáo tới thăm, nhưng chính quyền Gia Lai đã ngăn không cho ông này đến
nhà bà mục sư Nguyễn Công Chính. Họ đe dọa những vùng như vậy còn Fulro…, nên
không thể đến được.
Chúng
tôi gặp và cũng nói nhận định chung về tình hình tôn giáo VN trong bối cảnh xã
hội VN hiện nay. Đặc biệt là việc thực thi pháp luật và các điều ước quốc tế
liên quan đến các quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo mà Việt
Nam đã cam kết...nhưng không chịu thực hiện
Mục
sư Nguyễn Hồng Quang
.....Chúng
tôi gặp và cũng nói nhận định chung về tình hình tôn giáo Việt Nam trong bối
cảnh xã hội Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là việc thực thi pháp luật và các
điều ước quốc tế liên quan đến các quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng và
tôn giáo mà Việt Nam đã cam kết...nhưng không chịu thực hiệnMục sư Nguyễn Hồng
Quang
Trình
bày của những nhóm ngoài nhà nước
Tuy
nhiên những người gặp được báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo- tín ngưỡng
của Liên hiệp quốc đã thẳng thắn trình bày với ông này về những hành xử của nhà
cầm quyền đối với những giáo phái không chịu sự kiểm soát của Hà Nội.
Mục
sư Nguyễn Hồng Quang thuộc hội thánh Tin lành Mennonite Tư gia cho biết lại
trình bày của ông với phái đoàn:
Chúng
tôi gặp và cũng nói nhận định chung về tình hình tôn giáo Việt Nam trong bối
cảnh xã hội Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là việc thực thi pháp luật và các
điều ước quốc tế liên quan đến các quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng và
tôn giáo mà Việt Nam đã cam kết, đã ký kết, đã nói rất nhiều hơn 60 năm qua từ
năm 1946, trong Hiến Pháp, nhưng không chịu thực hiện hoặc thực hiện nửa vời,
và thực hiện với chủ đich riêng của họ. Sự thực đó còn tồn tại những nhức nhối,
đau khổ cho cộng đồng Tin Lành Mennonite nói riêng, và các cộng đồng tôn giáo
thuần túy không có pháp nhân, không có liên hệ với chính quyền như giáo hội
Mennonite, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần Túy, hay Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống Nhất nói chung.
Mục
sư Nguyễn Hồng Quang cũng cho biết quan tâm của phái đoàn do ông Heiner
Beilefeldt dẫn đầu nêu ra trong cuộc gặp với những đại diện thuộc Hội đồng Liên
Tôn:
Ông
và phái đoàn có Phủ Cao ủy Liên Hiệp Quốc ở Thái Lan và Châu Âu, cũng rất quan
tâm làm thế nào để những cộng đồng Tin Lành hay Phật Giáo tồn tại trong bối
cảnh Nhà nước không hoan nghênh, đặt ra ngoài vòng pháp luật, cho là bất hợp
pháp và thường xuyên có những đụng chạm nảy lửa ở các địa phương giữa các giáo
hội không có pháp nhân với phía chính quyền. Và làm thế nào để huấn luyện các
chức sắc tôn giáo để ra phục vụ trong những bối cảnh khắc nghiệt như vậy. Đó là
những điều ông quan tâm nhất.
Lâu
lắm rồi nói chung có những cái nhìn không tốt. Tức các cha làm việc xây dựng
giáo hội, xây dựng quê hương nên có lòng ganh tỵ. Cuối cùng có những việc làm
không muốn có ảnh hưởng của linh mục trong đời sống dân chúng, không chỉ người
Công giáo mà cả lương dân
Linh
mục Nguyễn Minh Sáng
Họ
có phổ biến cho chúng tôi một tờ bướm nói lên những hành vi nào là sỉ nhục,
phân biệt đối xử với tôn giáo, xâm hại những nguyên tắc quốc tế, những hiến
chương, điều luật quốc tế.
Chuyện
đoàn chưa biết
Trong
khi đoàn của báo cáo viên đặc biệt Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo- tín ngưỡng
đang còn có mặt tại Việt Nam, một sự việc xảy ra tại giáo xứ Đá Nện, huyện
Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình vào chiều tối ngày 29 tháng 7 là linh mục chánh xứ
Trương Văn Vút của giáo xứ này trên đường đi làm lễ đã bị chặn đánh. Trong số
những kẻ đánh vị linh mục này có một người trưởng thôn.
Linh
mục Nguyễn Minh Sáng cùng giáo hạt Minh Cầm với linh mục Trương Văn Vút cho
biết nguyên do sự việc và biện pháp mà các linh mục thuộc giáo hạt Minh Cầm,
giáo phận Vinh đang tiến hành:
Lâu
lắm rồi nói chung có những cái nhìn không tốt. Tức các cha làm việc xây dựng
giáo hội, xây dựng quê hương nên có lòng ganh tỵ. Cuối cùng có những việc làm
không muốn có ảnh hưởng của linh mục trong đời sống dân chúng, không chỉ người
Công giáo mà cả lương dân.
Vừa
qua ngài có làm một nghĩa trang cho ông bà, tổ tiên trong vùng xứ đạo đó; có
những nhìn nhận về phía chính quyền ‘không như ý’. Thì có những nhìn nhận như
thế…bởi vì như riêng giáo xứ mà tôi đến làm mục vụ ở đây cũng vậy: trước đây
cũng có việc ném đá, vào phá tán trong nhà thờ, rồi có những vụ đổ máu xảy ra.
Phía
các cha trong giáo hạt có văn bản gửi cho Ủy ban Nhân dân tỉnh, Ban Tôn giáo
tỉnh cũng như chính quyền huyện Tuyên Hóa, yêu cầu thứ nhất đây là hành động có
tổ chức, có dự kiến trước thì yêu cầu phía chính quyền phải làm ra sự việc này
để tránh sự mất đoàn kết lương- giá, cũng như cái nhìn về phía chính quyền.
Trong giáo hạt và tại Quảng Bình đã có nhiều việc như thế rồi nên bây giờ các
cha trong giáo hạt họp lại cực lực phản đối vấn đề này, cũng như làm tờ trình
yêu cầu tỉnh, huyện giải quyết sự việc rõ ràng.
Nhiều
người hẳn còn nhớ vụ việc tại giáo xứ Tam Tòa, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình hồi năm 2009. Lúc đó một linh mục do được chính quyền địa phương yêu cầu
đến để giúp giải quyết vụ việc là linh mục Ngô Thế Bính cũng bị đánh trọng
thương.
Sau
chuyến làm việc tại Việt Nam, ông Heiner Beilefeldt-báo cáo viên đặc biệt của
Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo- tín ngưỡng- sẽ có văn bản trình cho Hội đồng
Nhân quyền Liên hiệp quốc tại kỳ họp vào năm tới về những kết luận và khuyến
nghị của ông qua chuyến làm việc tại Việt Nam từ ngày 21 đến 31 tháng 7 vừa
rồi..
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
(tiếp theo Bản tin LHNQVN-TS 17.07.14)
kính chuyển quý Diễn đàn và quý Bạn đọc
Bản Tuyên bố phổ biến cho báo chí
của ông Heiner Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc
về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng sau Chuyến
thăm nước CHXHCNVN (Cộng sản Việt Nam)
Phần 1. Bản tiếng Việt
Phần 2. Bản tiếng Anh (xin đọc Bản Tin LHNQVN-TS kế tiếp)
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nguyên văn :
Tuyên bố báo chí về Chuyến thăm Nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam
Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng,
Heiner Bielefeldt
Hà Nội, Việt
Nam, 31/7/2014
Với tư cách là
Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, tôi
đã được Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mời tiến hành một
chuyến thăm quốc gia từ ngày 21 đến 31 tháng 7 năm 2014.
Trước hết, tôi
cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã mời tôi đến đây và đã duy trì mối quan hệ hợp tác
mang tính xây dựng với Thủ tục Đặc biệt mà tôi phụ trách. Báo cáo viên tiền nhiệm
của tôi, ông Abdelfattah Amor đã quá cố, cũng đã đến thăm Việt Nam vào năm
1998. Từ năm 2010 đến nay, Việt Nam đã tích cực hợp tác với các Thủ tục Đặc
biệt và đã mời sáu chuyên gia thực thi các thủ tục này, trong đó có tôi, tiến
hành các chuyến thăm quốc gia. Việt Nam cũng là một thành viên của Hội đồng
Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã rất tích cực trong
việc chuẩn bị và hỗ trợ trong suốt chuyến thăm này. Bộ cũng tạo điều kiện để
chúng tôi thăm một tù nhân.
Tôi cảm ơn tất
cả các bên đã gặp và tham gia trao đổi với tôi trong chuyến thăm này, từ các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Chính phủ, các cộng đồng hay tổ chức
tôn giáo (đã được công nhận hay chưa được công nhận), đến cộng đồng ngoại giao
và các cơ quan Liên Hợp Quốc. Tôi cũng muốn cảm ơn Chương trình Phát triển Liên
Hợp Quốc (UNDP) tại Hà Nội đã hỗ trợ về hậu cần cho chuyến đi. Những cuộc thảo
luận ở Hà Nội, Tuyên Quang, thành phố Hồ Chí Minh và Vĩnh Long nhìn chung đều
cởi mở, thẳng thắn và mang tính xây dựng.
Dự định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của đoàn
không may đã bị gián đoạn từ ngày 28 đến 30 tháng 7. Tôi nhận được những thông
tin đáng tin cậy là một số cá nhân tôi muốn gặp đã bị đặt dưới sự theo dõi chặt
chẽ, cảnh cáo, đe dọa, sách nhiễu hoặc bị công an ngăn cản việc đi lại. Ngay cả
những người đã gặp được tôi cũng không tránh khỏi việc bị công an theo dõi hoặc
chất vấn ở một mức độ nhất định. Ngoài ra, việc di chuyển của tôi cũng bị giám
sát chặt bởi “những cán bộ an ninh hoặc công an” mà chúng tôi không được thông
báo rõ, đồng thời sự riêng tư và bảo mật của một số cuộc gặp gỡ cũng bị ảnh
hưởng. Những việc này là sự vi phạm rõ ràng các điều khoản tham chiếu củabất kỳ
chuyến thăm quốc gia nào.
Hôm nay, tôi
trình bày với các bạn ở đây những phát hiện sơ bộ và một số nhận xét chính của
tôi mà tôi muốn các bạn chú ý tới. Tuyên bố báo chí này không phải là báo cáo
cuối cùng. Báo cáo chính thức sẽ được trình bày tại kỳ họp thứ 28 của Hội đồng
Nhân quyền vào tháng 3 năm 2015. Trong quá trình chuẩn bị báo cáo, tôi sẽ tiếp
tục hợp tác và làm việc trên cơ sở tham vấn với Chính phủ và tất cả các bên
liên quan để có thêm các thông tin và làm sáng tỏ những điểm chưa rõ, đặc biệt
về các vấn đề liên quan đến những vùng tôi không thể đến thăm.
I. Tóm lược tình hình tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam có
nhiều tôn giáo và tín ngưỡng. Ban Tôn giáo Chính phủ cho tôi biết hiện có 37 tổ
chức tôn giáo được đăng ký trong cả nước. Theo con số thống kê của Chính phủ,
tổng số tín đồ của các tôn giáo được công nhận là khoảng 24 triệu người trong
tổng dân số 90 triệu người. Các cộng đồng tôn giáo được công nhận chính thức
gồm 11 triệu Phật tử, 6,2 triệu tín đồ Công giáo, 1,4 triệu người theo đạo Tin
lành, 4,4 triệu người theo đạo Cao Đài, 1,3 triệu phật tử Hòa Hảo cùng với
75.000 người Hồi giáo, 7.000 người Baha’ís, 1.500 người Ấn Độ giáo và những
người theo các tôn giáo khác. Chính thức có 26.387 cơ sở thờ tự gồm chùa, đền
thờ, nhà thờ và các nơi thờ tự khác. Việt Nam tự hào đã tổ chức các hội nghị
quốc tế của các nhà lãnh đạo tôn giáo, cụ thể là một đại hội các chức sắc Phật
giáo được tổ chức vào Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc vào tháng 5/2014. Tôi cũng
được cho biết là ở Việt Nam có 54 dân tộc. Đôi khi các nhóm dân tộc thiểu số
cũng chính là các nhóm tôn giáo thiểu số.
Trong khi đa số
người dân Việt Nam không thuộc một cộng đồng tôn giáo được chính thức công
nhận, họ cũng vẫn thỉnh thoảng hoặc thường xuyên thực hiện những nghi lễ truyền
thống – mà ở Việt Nam thường gọi là “tín ngưỡng”. Nhiều nghi lễ truyền thống
biểu đạt sự tôn kính tổ tiên. Ngoài ra, trong thực tế có những niềm tin và thực
hành tôn giáo nằm ngoài các cộng đồng tôn giáo đã chính thức được công nhận.
Khó có thể có một bức tranh rõ ràng và đầy đủ về vấn đề này, nếu không muốn nói
là không thể. Một vài chuyên gia của Chính phủ đưa ra ước tính tương đối thấp
về số người đang thực hành các tôn giáo bên ngoài các cộng đồng đã được công
nhận. Nhưng đồng thời tôi cũng nghe được những phỏng đoán rằng số người đang
thực hành tôn giáo ngoài các cộng đồng đã được đăng ký – hoặc đang muốn đăng ký
– có thể lên đến hàng triệu người. Bên cạnh những ước đoán khác nhau về con số,
tôi cũng nhận được những thông tin trái ngược nhau về các điều kiện để những
người này có thể thụ hưởng quyền con người về tự do tư tưởng, lương tâm và tôn
giáo hay tín ngưỡng.
Nhiều người
chúng tôi tiếp xúc nhấn mạnh một thực tế rằng các điều kiện để thực hành tự do
tôn giáo ở Việt Nam nhìn chung đã được cải thiện so với tình hình sau năm 1975.
Nhiều đại diện các cộng đồng tôn giáo cũng chia sẻ nhận xét này, và họ công
nhận rằng, mặc dù còn có nhiều khó khăn nhưng hiện nay nhìn chung họ có nhiều
không gian để thực hành tôn giáo hơn trong quá khứ. Mặt khác, điều kiện để các
cá nhân hoặc các nhóm thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng cũng khó đoán, và
thường phụ thuộc vào thiện chí của các cơ quan Chính phủ, đặc biệt là chính
quyền địa phương. Ngoài ra, thành viên của các nhóm
thiểu số về tôn giáo không được công nhận chính thức tiếp tục gặp nhiều khó
khăn trong việc thực hành tự do tôn giáo tín ngưỡng của mình, đặc biệt khi các
thực hành tôn giáo hay nghi lễ của họ bị cho là không phù hợp với “lợi ích
chính đáng của số đông” – một cụm từ
thường được nhắc đến trong một số cuộc thảo luận.
II. Các quy định pháp lý và việc thực hiện
a) Quy định pháp lý điều chỉnh thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng
Việt Nam đã phê
chuẩn hầu hết các công ước nhân quyền quốc tế, bao gồm Công ước quốc tế về Các
quyền Dân sự và Chính trị, trong đó Điều 18 bảo vệ chung tự do tư tưởng, lương
tâm, tôn giáo hay tín ngưỡng.
Hiến
pháp mới sửa đổi của Việt Nam1 quy định chương II “Quyền con người, Các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Tại đó, Hiến pháp 2013 cũng nhắc đến tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng trong Điều 24. Các đại diện của Chính phủ đã nhắc lại
nhiều lần và nhấn mạnh rằng những người có quyền được quy định trong điều này
bao gồm tất cả mọi người, trong khi quy định tương ứng tại Hiến pháp 1992 giới
hạn ở các công dân Việt Nam. Điều này được trình bày như một dấu hiệu cho thấy
thái độ nhìn chung là tích cực hơn đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều
24 quy định như sau:
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp
luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Việt
Nam chưa có một luật riêng điều chỉnh các vấn đề tôn giáo. Văn bản pháp lý liên
quan nhất là Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng ban hành ngày 18 tháng 6 năm
2004. Nghị định số 92 ngày 8/11/2012 quy định chi tiết các điều khoản trong
Pháp lệnh. Trong Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng, Điều 38 khẳng định các
quy định trong các điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực trong trường hợp có sự khác
biệt giữa quy định của Pháp lệnh và các điều ước quốc tế.
Việt Nam chưa có một luật riêng điều chỉnh
các vấn đề tôn giáo. Văn bản pháp lý liên quan nhất là Pháp lệnh về Tôn giáo và
Tín ngưỡng ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004. Nghị định số 92 ngày 8/11/2012
quy định chi tiết các điều khoản trong Pháp lệnh. Trong Pháp lệnh về Tôn giáo
và Tín ngưỡng, Điều 38 khẳng định các quy định trong các điều ước quốc tế sẽ có
hiệu lực trong trường hợp có sự khác biệt giữa quy định của Pháp lệnh và các
điều ước quốc tế.2
Tôi
được biết một dự án xây dựng luật về các vấn đề tôn giáo trên nền tảng Pháp
lệnh hiện hành sẽ được đưa ra trong năm 2015, và dự kiến được thông qua năm
2016. Ngoài việc vị thế pháp lý của một văn bản luật sẽ cao hơn so với một pháp
lệnh, quá trình soạn thảo một luật mới toàn diện có thể là cơ hội để có những
sửa đổi cụ thể với mục đích thúc đẩy quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng và
việc thực thi quyền này trong thực tế. Khi thảo luận vấn đề này với các chuyên
gia của Chính phủ về vấn đề tôn giáo, đã có những nhận định rằng vấn đề đất đai
sẽ được giải quyết tốt hơn, đồng thời người nước ngoài cũng sẽ có điều kiện dễ
dàng hơn để thực hành tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Những người khác cũng bày
tỏ sự sẵn sàng cân nhắc những thay đổi cụ thể để khắc phục những quy định hạn
chế trong Pháp lệnh năm 2004.
b) Những hạn chế đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
Theo tiêu chuẩn
quốc tế, việc thực hành quyền con người về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không
phải là không thể có một số hạn chế được đặt ra. Đồng thời, Điều 18 Công ước
Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) liệt kê một số tiêu ch cần đạt
được để những hạn chế đặt ra đó được coi là chính đáng. Việc tuân thủ nghiêm
ngặt tất cả các tiêu chí này là cốt yếu để đảm bảo rằng tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng trở thành sự thực.
Các
điều khoản hạn chế được quy định trong các văn bản luật có liên quan của Việt
Nam hiện nay rộng hơn nhiều so với các điều khoản hạn chế quy định trong ICCPR.
Tuy nhiên quy định giới hạn quá rộng có thể làm nhòe ranh giới của tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng, vì thế gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực thi quyền
này trong thực tế. Điều còn thiếu trong các quy định pháp luật của Việt Nam về
tôn giáo, trước hết là chưa nêu rõ rằng khía cạnh cá nhân trong niềm tin và
nhận thức tôn giáo, đạo đức hay triết lý của một người – thường được gọi là
“forum internum” (tâm linh, hay thế giới nội tâm) – phải được tôn trọng vô điều
kiện và không bao giờ được áp dụng bất kỳ giới hạn chính đáng hay can thiệp nào
với bất kỳ lý do nào, ngay cả trong trường hợp khủng hoảng nghiêm trọng hay
tình trạng 4 khẩn cấp. Việc bảo vệ vô điều kiện đối với tâm linh cá nhân phản
ánh quan niệm rằng cưỡng ép con người giả mạo một niềm tin không thực hoặc từ
bỏ điều họ tin tưởng sâu sắc có thể phá hủy lòng tự tôn của họ. Việc cấm bất kỳ
sự can thiệp mang tính cưỡng ép nào đối với nội tâm trong niềm tin tôn giáo,
đạo đức hay triết lý của một người vì thế cũng có vị trí quan trọng trong luật
quốc tế tương đương với việc cấm nô lệ hay cấm tra tấn. Đây là những quy định
tuyệt đối không có bất kỳ ngoại lệ nào. Trong khi đó, Điều 24 Hiến pháp 2013
nhắc đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói chung mà không quy định cụ thể việc
bảo vệ khía cạnh tâm linh cá nhân trong tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
Không như tâm
linh bên trong con người, việc truyền bá tôn giáo hay tín ngưỡng trong phạm vi
xã hội (“forum externum”, hay thế giới bên ngoài) không được bảo vệ vô điều
kiện, theo luật quốc tế quy định. Vì vậy phải quy định cụ thể các điều kiện
được phép áp dụng các hạn chế một cách rõ ràng và dự đoán được. Việc này cần
được thực hiện trên cơ sở nhận thức rằng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, ở cả
khía cạnh cá nhân và cộng đồng, có vị thế quy định là một quyền con người phổ
quát. Mối quan hệ giữa quyền tự do này và những hạn chế đối với quyền ấy, vì
thế, cần được xem xét như một mối quan hệ giữa quy định và ngoại lệ. Theo đó,
việc đưa ra các lập luận chứng minh không phải là nghĩa vụ của những người muốn
thực hành quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ; mà là nghĩa vụ của những
người cho rằng việc hạn chế là cần thiết. Trong trường hợp có nghi vấn, quy
định sẽ được áp dụng, còn ngoại lệ luôn luôn yêu cầu phải có thêm lập luận
chứng minh, cả ở mức độ bằng chứng cụ thể và lập luận lý thuyết.
Khi trao đổi
với các đại diện của Chính phủ, tôi thường nghe nhắc đến “pháp luật Việt Nam”
nói chung. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu đối với các biện pháp hạn chế quy định
trong điều 18 ICCPR, những hạn chế này phải cụ thể hơn và đáp ứng được các tiêu
chí đặt ra. Ngoài việc phải được quy định về mặt pháp lý một cách rõ ràng, cụ
thể và đoán trước được, những hạn chế phải là cần thiết để phục vụ một mục đích
chính đáng – bảo vệ “an toàn của công chúng, trật tự công, sức khỏe, hay đạo
đức hay các quyền và tự do căn bản của những người khác”. Thêm nữa, các hạn chế
phải tuân thủ chặt chẽ tính cân xứng, nghĩa là các hạn chế phải luôn luôn giữ ở
mức can thiệp tối thiểu. Những tiêu chuẩn này và một số tiêu chuẩn khác đã được
quy định với mục đích bảo vệ các thành tố của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
ngay cả trong những tình huống (có vẻ, hay thực sự) có xung đột với những quyền
khác, hay với lợi ích chung quan trọng.
Để
so sánh, các văn bản pháp lý liên quan của Việt Nam đã cho các cơ quan chính
quyền nhiều không gian để quy định, giới hạn, hạn chế hay cấm việc thực hành tự
do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều 14 Hiến pháp 2013 liệt kê một số lý do để hạn
chế các quyền con người và quyền công dân mà, tôi cho rằng, cũng áp dụng với tự
do tôn giáo hay tín ngưỡng. Khả năng hạn chế các quyền con người vì lợi ích của
“quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng” đã khác so với các mục đích được liệt kê trong điều 18
ICCPR. Mặt khác, Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng cũng đưa ra các mục đích
như “lòng yêu nước”, “thống nhất đất nước”, “đoàn kết nhân dân” và “truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”. Thêm nữa, theo điều 8, khoản 2 của Pháp
lệnh, “Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà
bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến
tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại
đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.”
Trong
các cuộc thảo luận với các quan chức Chính phủ ở các cơ quan khác nhau, bao gồm
đại diện cấp cao của cơ quan lập pháp, tôi thấy những hạn chế rất rộng này được
nhắc đến nhiều lần. Viện dẫn “lợi ích xã hội” không rõ ràng cũng có thể, thậm
chí, dẫn đến truy tố tội hình sự, theo Điều 258 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 của Điều này quy định: “Người nào lợi dụng
các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội
họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.“ Tôi thấy một
điều đáng lo ngại trong điều khoản này là việc không có quy định cụ thể hành vi
như thế nào sẽ bị coi là “lợi dụng” tự do tôn giáo hoặc các quyền tự do dân chủ
khác. Các thành viên của Tòa án Nhân dân Tối cao không đưa ra hướng dẫn cụ thể
nào để giải thích thuật ngữ “lợi dụng”. Cách thức quy định rộng và không rõ
ràng trong Điều 258 đã đem lại cho các cơ quan chức năng liên quan khả năng tự
ý định đoạt để ngăn người dân trong tất cả các loại hoạt động – kể cả thái độ
ngầm của họ - nếu những hoạt động này bằng cách nào đó bị coi là mâu thuẫn với
lợi ích của Nhà nước. Từ
nhiều trao đổi thảo luận tôi đã nghe, đây không phải là một vấn đề lý thuyết
đơn thuần, và Điều 258 Bộ luật Hình sự đã được áp dụng thường xuyên, và được áp
dụng để hạn chế quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng và các quyền con người khác.
Khi đặt ra câu hỏi về tù nhân lương tâm, tôi được cho biết không có vụ việc nào
về tù nhân lương tâm. Với quy định không rõ ràng và con số lớn các vụ việc bị
buộc tội theo Điều 258 bộ Luật Hình sự, người ta tự hỏi làm thế nào cơ quan có
thẩm quyền có thể loại trừ được khả năng này.
c) Yêu cầu hành chính với thực hành tôn giáo
Pháp lệnh về
Tôn giáo và Tín ngưỡng bao gồm rất nhiều quy định mà các cộng đồng tôn giáo
phải tuân thủ để có thể hoạt động. Các quy định này được hướng dẫn chi tiết hơn
trong Nghị định 92. Ví dụ, các cộng đồng tôn giáo được yêu cầu phải đăng ký tư
cách với Ban Tôn giáo Chính phủ; họ phải xin các giấy phép cụ thể để xây dựng
hay kiến thiết nơi thờ tự; họ phải trình với chính quyền địa phương một bản kế
hoạch các hoạt động hàng năm; họ phải thông báo với chính quyền về việc bổ
nhiệm các chức sắc tôn giáo; họ phải được chính quyền địa phương liên quan cho
phép mới có thể tiến hành các nghi lễ ở nơi công cộng, vv.. Các yêu cầu trong
Pháp lệnh và Nghị định bao gồm những nghĩa vụ về thông tin và thông báo cũng
như quy định phải được phê duyệt trước khi tiến hành một số hoạt động tôn giáo
nhất định. Nghị định cũng quy định thời hạn mà chính quyền được yêu cầu phải
trả lời các đơn được gửi đến. Nếu có một quyết định không thuận, cơ quan có
thẩm quyền phải nêu rõ lý do.
Những phát hiện
sơ bộ của tôi không nhằm mục đích đưa ra một đánh giá tổng thể những quy định
hành chính rất cụ thể trong Pháp lệnh và Nghị định xem các quy định này có phản
ánh phù hợp sự tôn trọng tự do tôn giáo tín ngưỡng không. Thay vào đó, tôi sẽ
tập trung vào một vấn đề xuất hiện trong hầu hết tất cả các cuộc thảo luận của
chúng tôi, đó là yêu cầu các cộng đồng tôn giáo phải có đăng ký với cơ quan có
thẩm quyền. Theo Điều 16 của Pháp lệnh, các tổ chức cần phải đáp ứng được một
số tiêu chí để được công nhận trước pháp luật là một tổ chức tôn giáo. Cụ thể
là, các điều kiện này nhằm đảm bảo tôn trọng “thuần phong, mỹ tục và lợi ích
của dân tộc”. Không đề cập đến các chi tiết về thủ tục và nội dung cụ thể, tôi
muốn tập trung vào hai khía cạnh đặc biệt quan trọng.
Khía cạnh đầu
tiên liên quan đến bản chất của việc đăng ký.
Đây là một đề nghị, hay một yêu cầu chính thức? Khi thảo luận vấn đề này, tôi
nhận được những câu trả lời khác nhau, và có vẻ như thiếu sự rõ ràng. Trong khi
một số đại diện của Chính phủ tuyên bố không chút ngập ngừng rằng không có đăng
ký với chính quyền thì các cộng đồng sẽ không được hoạt động, một số khác cho
rằng một cộng đồng tôn giáo vẫn có thể tiến hành một số hoạt động tôn giáo căn
bản như tụ họp để sinh hoạt tôn giáo tại nhà riêng. Ngay cả với cách diễn giải
thứ hai mang tính tạo thuận lợi hơn, tôi kinh ngạc thấy phạm vi của tự do tôn giáo vẫn còn rất hạn chế và không rõ
ràng.
Trong bối cảnh
này, thuật ngữ “công nhận” được sử dụng trong
Pháp lệnh và cũng được đề cập đến trong nhiều cuộc trao đổi, có thể
cần được giải nghĩa ngắn gọn. Việc thực thi quyền con người đối với tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng, bởi cá nhân và/hoặc trong một cộng đồng với những người khác, không thể
diễn ra phụ thuộc vào bất kỳ hành vi công nhận hay phê duyệt hành chính cụ thể
nào. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vốn có trong tất cả
con người và vì thế có vị thế quy chuẩn cao hơn bất kỳ một hành vi hay thủ tục
hành chính nào. Lời nói đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu bắt đầu bằng
“công nhận nhân phẩm vốn có và các quyền bình đẳng và không thể bị tước đoạt
của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại”. Rõ ràng là “công nhận” ở
đây có nghĩa cơ bản là bất kỳ tương tác có nghĩa nào giữa con người với nhau
đều phải tôn trọng nhân phẩm và các quyền con người. “Công nhận” trong nghĩa
căn bản là tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền, vì thế, vượt trên bất kỳ sự “công
nhận” nào về mặt hành vi hành chính cụ thể.
Như vậy, quyền của một cá nhân hay một nhóm đối với tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng của họ không bao giờ có thể “được tạo ra” bằng bất kỳ thủ tục
hành chính nào. Đúng ra là ngược lại, việc đăng ký phải là phương
tiện cho quyền con người này, mà bản thân quyền ấy phải được tôn trọng là có
trước bất kỳ việc đăng ký nào. Trên cơ sở nhận thức chung ấy, việc đăng ký phải
là một đề nghị của Nhà nước, không phải một yêu cầu bắt buộc về mặt pháp lý.
Tình trạng của các cộng đồng tôn giáo không đăng ký, vì thế, gợi ý kết quả của
một phép thử quan trọng đối với nhận thức về vị thế chuẩn của tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng nói chung.
Điểm thứ hai,
tôi muốn đưa ra những quan ngại về việc có tồn
tại một tư cách pháp nhân nào khác đối với một số cộng đồng không được đăng ký
như tổ chức tôn giáo. Với các tiêu chí khá cao như quy định trong
Điều 16 của Pháp lệnh, việc các cộng đồng tôn giáo hoặc tín ngưỡng có một
phương án lựa chọn đáng tin cậy để được nhận một hình thức tư cách pháp nhân
nào đó – nếu họ muốn – là rất quan trọng. Với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng,
Nhà nước có trách nhiệm cung cấp khuôn khổ pháp lý và thể chế phù hợp để các
cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng có thể hoạt động tự do, không phải chịu những
gánh nặng không phù hợp và không có sự phân biệt đối xử. Điều này bao gồm
phương án lựa chọn để các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng có thể nhận được các
tư cách pháp nhân khác mà họ có thể cần để thực hiện các chức năng cộng đồng
quan trọng khác như mua bất động sản, tuyển dụng nhân viên chuyên nghiệp, vận
hành các tổ chức từ thiện, thiết lập các viện đào tạo chức sắc tôn giáo hay
giáo dục thế hệ trẻ, vv.. Không có, và không thực sự tiếp cận được với vị trí
tư cách pháp nhân phù hợp, tương lai phát triển của các cộng đồng tôn giáo và
tín ngưỡng, đặc biệt là các nhóm nhỏ, có thể bị nguy hiểm nghiêm trọng. Tôi
được biết rằng có khả năng cho các cộng đồng tôn giáo đăng ký như các hiệp hội,
nhưng tôi không có điều kiện để tìm hiểu kỹ hơn phương án này trên thực tế đã
được áp dụng đến mức độ nào.
Trao đổi với
nhiều đại diện khác nhau của Chính phủ về vấn đề đăng ký, tôi tin rằng đây là
một vấn đề cần quan tâm, đòi hỏi các biện pháp lập pháp và các biện pháp khác. Tôi khuyến nghị rằng những cải cách pháp lý mới cần (1) làm
rõ rằng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, với vị thế là một quyền con người, cao
hơn bất kỳ một hành vi phê duyệt hành chính nào và có thể được thực hành bởi
các cá nhân và các nhóm người trước khi đăng ký và độc lập với việc đăng ký;
đem lại cho các cộng đồng tôn giáo các phương án lựa chọn đáng tin cậy và dễ
tiếp cận hơn để họ có được tư cách pháp nhân phù hợp nhằm tạo điều kiện cho sự
phát triển tự do của một cơ cấu tổ chức phù hợp. Ban Tôn giáo Chính
phủ cần đóng một vai trò cốt yếu trong việc hướng dẫn và đào tạo các cơ quan
địa phương diễn giải các quy định theo các quyền con người phổ quát.
d) Vấn đề
truy đòi khắc phục pháp lý
Điều 30 Hiến
pháp 2013 quy định mọi người có quyền khiếu nại với các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền. Việc thực thi hiệu quả các quyền con người, bao gồm tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng, phụ thuộc nhiều vào sự tồn tại của một cơ chế truy đòi
khắc phục pháp lý phù hợp. Mọi người phải có thể khắc phục, mà không bị yêu cầu
đáp ứng những giới hạn hay gánh nặng bất hợp lý nào, bằng những công cụ pháp lý
để có thể không thừa nhận một quyết định được cơ quan chức năng đưa ra nếu họ
thấy các quyền có họ đã bị vi phạm, căn cứ vào tất cả các nguyên tắc về đảm bảo
một quá trình thích đáng và công bằng. Mục đích chính của biện pháp truy đòi khắc phục pháp lý không phải để
xác định xem cá nhân nào trong hệ thống hành chính đã làm sai, mà để đảm bảo việc thực hiện một cách nhất quán các quyền con
người cho tất cả mọi người.
Khi hỏi về các ví dụ liên quan đến các vụ việc trong đó người dân thành
công trong việc không thừa nhận và khắc phục những cáo buộc vi phạm tự do tôn
giáo và tín ngưỡng của họ như được quy định tại Điều 24 của Hiến pháp, tôi được
biết chưa có trường hợp nào như vậy được biết đến ở Việt Nam. Kể cả thành viên
của Tòa án Nhân dân Tối cao cũng không biết một vụ việc nào. Đây là một kết quả
đáng ngạc nhiên – và càng ngạc nhiên hơn khi trong thực tế có nhiều mâu thuẫn
về đất đai đã được thông tin đến tôi. Một số mâu thuẫn có vẻ có liên quan đến
khía cạnh tự do tôn giáo, ví dụ như khi mảnh đất trước kia đã được dùng cho
nghĩa địa tôn giáo hay các nhà thờ tự đã bị lấy đi để phục vụ phát triển kinh
tế.
Khi trao đổi về
vấn đề biện pháp truy đòi khắc phục pháp lý, khả năng thường được nhắc
đến là gửi đơn kháng nghị đến cấp hành chính cao hơn. Tuy nhiên phương án này
không thể được tính là tương đương với một cơ quan tư pháp độc lập có nhiệm vụ
bảo đảm quyền con người của tất cả mọi người, bao gồm trường hợp xung đột giữa
cá nhân hay nhóm người với cơ quan hành chính. Mặc dù tôi đã nghe nói có một số
trường hợp kháng nghị lên cấp cao hơn, bao gồm cả Thủ tướng, đã giúp giảm nhẹ
mâu thuẫn, nhưng trong nhiều trường hợp khác, người kháng nghị không thấy cơ
quan hành chính có phản ứng gì. Với một số trường hợp khác, cấp hành chính cao
hơn chỉ đơn thuần chuyển lại vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền ở địa phương để
xem xét lại, nghĩa là vụ việc có thể rơi vào quên lãng. Từ góc độ pháp quyền,
tình trạng này còn xa mới được coi là thỏa mãn tinh thần thượng tôn pháp
luật.
III. Quyền tự chủ của các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng
a) Thái độ tiêu cực đối với các cộng đồng tôn giáo chưa được công nhận
Các đại diện
của Chính phủ đã nhấn mạnh nhiều lần là tôn giáo có thể và cần đóng góp vào sự
phát triển của đất nước, không chỉ bằng cách khuyến khích các giá trị xã hội,
đạo đức và công dân. Sự trông đợi này được phản ánh vào Pháp lệnh về Tôn giáo
và Tín ngưỡng, trong đó tại Điều 2, câu thứ hai quy định: “Chức sắc nhà tu hành
có trách nhiệm thường xuyên giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, thực hiện quyền,
nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật.”
Dựa trên giả
định rằng hầu hết các giá trị tôn giáo và lợi ích của Nhà nước trùng nhau,
nhiều tôn giáo đã trở thành thành viên của Mặt trận Tổ quốc do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Tổ chức tôn giáo lớn nhất trong Mặt trận Tổ quốc là Giáo Hội
Phật giáo Việt Nam. Các cộng đồng tôn giáo được công nhận chính thức khác cũng
góp một phần lớn vào Mặt trận Tổ quốc.
Khi thảo luận
vấn đề này với Văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi được biết
Giáo hội gồm chín hệ phái Phật giáo theo truyền thống Đại thừa (phổ biến ở Việt
Nam), Tiểu thừa và các nhánh khác. Hợp tác trong tinh thần đoàn kết, nhiều hệ
phái có thể duy trì những đặc tính và bản sắc riêng, bao gồm những di sản ngôn
ngữ khác nhau. Điều này cũng được khẳng định trong những cuộc trao đổi tại hai
ngôi chùa Khmer ở thành phố Hồ Chí Minh nơi thực hành Phật giáo Tiểu thừa. Tuy
nhiên, trong khi công nhận sự đa dạng ngay trong Giáo hội Phật giáo
Việt
Nam, tôi lưu ý thấy thái độ phủ nhận các thực hành
Phật giáo bên ngoài Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Một vài chức sắc trong
Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho biết họ chưa bao giờ nghe
thấy các nhóm Phật tử độc lập ở Việt Nam. Một số vị khác ám chỉ đến
“quan điểm riêng” của một số cá nhân bị dẫn dắt bởi các tham vọng có vấn đề về
mặt đạo đức và không đáng được chú ý nghiêm túc. Việc gán những mối quan tâm
“ích kỷ” vặt vãnh cho những người đang thực hành Phật giáo hay các tổ chức tôn
giáo ngoài các kênh chính thống là một điều được lặp đi lặp lại trong các cuộc
trao đổi. Điều này có vẻ trùng hợp với việc “lợi ích của số đông” thường được
nhắc đến, với giả định là lợi ích của số đông sẽ được đặt lên trên quyền của
những người thiểu số hay các cá nhân.
Tôi muốn nhấn
mạnh là trong bối cảnh này, tự do tôn giáo tín
ngưỡng không chỉ đơn thuần là vấn đề thiểu số. Là một quyền con người, nó liên
quan đến tất cả con người, bất kể họ có theo một tôn giáo chiếm số đông hay
thuộc về một cộng đồng thiểu số, hay không thuộc về một cộng đồng tôn giáo nào.
Cần đặc biệt chú ý đến cách thức đối xử với những người thiểu số, vì cách thức
đối xử với thiểu số thường cho thấy bầu không khí chung của một xã hội có khoan
dung hay không. Khi các cộng đồng thiểu số có thể hoạt động tự do và độc
lập, thành viên của một nhóm đa số nhìn chung cũng có nhiều không gian hơn để
thực hành tôn giáo của chính họ theo cách họ thấy phù hợp. Bất kỳ sự tôn trọng
nào với quan điểm cá nhân, bao gồm cả quan điểm bất đồng, đều tạo điều kiện cho
những dòng tư duy tự do luân chuyển trong một xã hội nói chung, và vì thế cũng
làm phong phú sự tương tác của những người thuộc các nhóm đa số. Tuy nhiên, tôi
đã lưu ý thấy trong một số cuộc trao đổi, “lợi ích của đa số” đã được viện dẫn
với mục đích rõ ràng là để phủ nhận yêu cầu của thiểu số là không phù hợp, hoặc
để cho rằng những yêu cầu ấy là không chính đáng vì có vấn đề đạo đức. Việc này
cũng xảy ra khi vấn đề các tổ chức tôn giáo độc lập – như Giáo hội Phật giáo
Thống nhất Việt Nam, các nhóm độc lập theo đạo Hòa Hảo, Cao Đài hay Tin lành –
được nêu ra.
Trong các cuộc gặp gỡ với các đại diện của cộng đồng Phật
giáo độc lập, tôi được nghe những khiếu nại về tình trạng đàn áp vẫn diễn ra, bao gồm việc
công an triệu tập, giữ tại nhà, bỏ tù và tịch thu tài sản, những việc sẽ cản
trở các cá nhân thực hành tự do tôn giáo hay tín ngưỡng kể cả ở mức tối thiểu. Mặc dù tôi không thể phân tích một cách thỏa đáng và chi
tiết tất cả những khiếu nại đó (việc này sẽ cần nhiều thông tin hơn từ tất cả
các bên liên quan), thái độ chung phủ nhận các thực hành tôn giáo không
chính thức, như tôi đã gặp trong nhiều cuộc trao đổi, là một dấu hiệu cho thấy
rõ ràng rằng cộng đồng Phật tử độc lập hiện không thể
thực hành tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Bên cạnh đó, một số nhà sư tự gọi
mình là “Khmer Krom” cũng muốn có thêm quyền tự chủ không chỉ trong Giáo hội
Phật giáo Việt Nam mà còn cả bên ngoài tổ chức Phật giáo có tính bao trùm này.
Tình hình của các cộng đồng Hòa Hảo độc lập cũng có vẻ
khó khăn như vậy.
Một tôn giáo ít được biết đến bên ngoài Việt Nam là đạo Cao Đài. Đạo này tập
hợp nhiều truyền thống của Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và Cơ đốc giáo với
một số phương thức truyền dạy mới. Giống như trường hợp của Phật giáo, tín đồ
Cao Đài chia ra thành nhóm những người là thành viên của Mặt trận Tổ quốc và
nhóm những người nhất quyết thực hành tôn giáo độc lập. Mối quan hệ giữa hai
nhóm có vẻ căng thẳng. Trong khi các nhóm Cao Đài chính thức cáo buộc nhóm
không chính thống là có tư tưởng chia rẽ và gây ra “hoang mang” trong nhân dân,
nhóm Cao Đài độc lập cho rằng truyền thống chân truyền của họ bị Chính phủ can
thiệp nên, họ cho rằng, đã dẫn đến áp đặt những thay đổi trong tôn giáo Cao
Đài. Mặc dù tôi không ở vị trí phù hợp để đánh giá các chi tiết thần học trong
mâu thuẫn giữa hai bên, nhưng tôi trông đợi Chính phủ đảm bảo việc hoạt động tự
do của các cộng đồng Cao Đài độc lập và tạo điều kiện cho sự phát triển của các
cộng đồng này theo cách mà bản thân họ thấy phù hợp. Tình trạng hiện nay của các nhóm Cao Đài độc lập rõ ràng là không phù
hợp với tự do tôn giáo tín ngưỡng, vì các cộng đồng này thiếu cơ sở vật chất
phù hợp để cầu nguyện và truyền dạy, và cho biết thường phải chịu sức ép để gia
nhập các nhóm chính thức.
b) Đào tạo và bổ nhiệm giáo chức
Số các cơ sở
đào tạo giáo chức của các tôn giáo khác nhau – Phật giáo, Công giáo, Tin Lành,
Cao Đài và các tôn giáo khác – đã tăng đáng kể trong những thập kỷ gần đây. Tôi
được Chính phủ cho biết hiện nay có khoảng 45.000 cơ sở đào tạo tôn giáo trong
cả nước. Trong khi các cộng đồng tôn giáo quyết định những phần chính trong
chương trình đào tạo – nghĩa là việc dạy các giáo lý, thực hành và nghi lễ,
lịch sử của cộng đồng và các vấn đề khác – chương trình cũng bao gồm các môn
học về lịch sử và luật pháp Việt Nam và chủ nghĩa Mác_Lênin, do Bộ Giáo dục và
Đào tạo cung cấp.
Các cộng đồng
tôn giáo có thể bổ nhiệm và suy cử chức sắc tôn giáo theo quy định riêng của
họ. Họ cho biết quyết định bổ nhiệm của họ không cần chính quyền phê duyệt,
nhưng cần đăng ký chức sắc tôn giáo đã được bổ nhiệm. Về việc
bãi chức danh tôn giáo hay sư tăng, việc này có vẻ hiếm xảy ra, các quyết định
nhìn chung cũng do cộng đồng tôn giáo đưa ra, theo giáo luật của họ. Tuy nhiên,
tôi cũng đã gặp một số cáo buộc về việc Chính phủ can thiệp vào một số trường
hợp trong đó nhà sư bị bắt bỏ áo tu. Tôi không thể xác định các chi tiết cần
thiết để đánh giá rõ ràng những trường hợp này. Tuy nhiên, việc chỉ có rất ít
các phương án lựa chọn cho một đời sống cộng đồng tôn giáo tự chủ, chắc chắn dẫn
đến một tình trạng cơ cấu trong đó việc bổ nhiệm hay bãi nhiệmtrên thực tế có
thể chịu ảnh hưởng bởi những lợi ích của Chính phủ.
c) Các vấn đề tài sản và đất đai
Trong chuyến
thăm, nhiều vấn đề tài sản đã được trao đổi với tôi, không chỉ từ thành viên
của các cộng đồng tôn giáo không được công nhận mà bởi cả đại diện của các cộng
đồng đang hợp tác với Chính phủ trong Mặt trận Tổ quốc. Nhiều yêu cầu về tài
sản liên quan đến bất động sản và/hoặc đất đai. Để phục vụ phát triển kinh tế
hoặc các dự án hiện đại hóa khác, một số cộng đồng tôn giáo đã mất – hoặc đang
bị đe dọa mất – một phần lớn đất đai của họ. Tôi nhiều lần nghe được những
yêu cầu trả lại cho các cộng đồng tôn giáo những tài sản họ đã bị lấy đi.
Thông thường
việc tranh chấp tài sản cần có những thông tin chính xác về các tình tiết phức
tạp, mà tôi không thể thu thập đủ các thông tin này. Vì thế tôi sẽ hạn chế mình
trong phạm vi một số nhận xét chung. Có bất động sản và đất đai là một trong
những điều kiện tiên quyết căn bản cho đời sống cộng đồng tôn giáo. Sở hữu rõ
ràng và được đảm bảo vững chắc vì thế là một yếu tố quan trọng xác định quyền
tự chủ của các cộng đồng tôn giáo – hay việc họ thiếu quyền tự chủ. Thêm
nữa, một số cộng đồng có những gắn bó về văn hóa và tôn giáo mạnh mẽ với một
mảnh đất cụ thể, ví dụ, nơi chôn cất tổ tiên của họ. Một trường hợp đặc biệt liên quan đến vấn đề này là cộng
đồng Chăm đang thực hành đạo Hồi và Ấn độ giáo. Người Chăm coi mình là một nhóm
dân cư bản địa và nỗ lực để được công nhận như vậy.
Đại diện của
Chính phủ công nhận rằng ở Việt Nam có mâu thuẫn đất đai – cũng như ở nhiều
nước khác. Đồng thời, họ nghi ngờ việc mâu thuẫn đất đai có thể ảnh hưởng đến
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Ít nhất trong một vài trường hợp, nhu cầu tôn
giáo rõ ràng có vai trò quan trọng. Ví dụ, đại diện của các nhóm Tin Lành
cho tôi biết về những trường hợp ở nông thôn trong đó nhiều giáo xứ Tin Lành bị
gộp lại thành một để “dễ quản lý hơn”. Họ cũng cho biết, việc sáp nhập như vậy
không phải luôn luôn được tiến hành với sự tôn trọng thỏa đáng đối với sự khác
biệt trong những hệ phái Tin Lành khác nhau, và nhu cầu của giáo dân.
Những mâu thuẫn
về vấn đề đất đai, đặc biệt khi có thêm yếu tố tôn giáo, luôn cần được xử lý
một cách tinh tế với mục tiêu là đưa ra những giải pháp chấp nhận được cho tất
cả các bên có quan tâm. Việc thiếu biện pháp khắc phục pháp lý như đã nêu ở
trên – đặc biệt trong ngành tư pháp – cũng có ảnh hưởng mạnh đến tình trạng đất
đai và các vấn đề tài sản liên quan đến các cộng đồng tôn giáo. Trong khi trao
đổi với đại diện của nhiều cộng đồng tôn giáo – bao gồm cả những cộng đồng hợp
tác với Chính phủ trong Mặt trận Tổ Quốc – tôi nhận thấy một nỗi thất vọng lớn
về các thủ tục pháp lý không hiệu quả. Kết quả là, một số cộng đồng tôn giáo
thấy họ bị phụ thuộc vào sự ban ơn của chính quyền địa phương.
IV. Thực hành tôn giáo trong những hoàn cảnh đặc biệt
a) Phạm nhân
Như đã đề cập,
Điều 24 Hiến pháp 2013 quy định dành cho mọi người chứ không dành riêng cho
công dân. Vì thế, phạm nhân, ngay cả khi tạm thời mất đi các quyền công dân
đầy đủ, cũng cần, trong bất kỳ trường hợp nào, được thụ hưởng tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng như một quyền con người. Khi thảo luận vấn đề này tôi nhận
được những thông tin trái ngược. Các cơ quan chính phủ nhìn chung nhấn mạnh
rằng phạm nhân có thể thực hành tôn giáo trong phạm vi trại giam nếu việc đó
không ảnh hưởng tiêu cực đến các phạm nhân khác và những hoạt động chung của
trại giam. Những người khác đã trải qua cuộc sống trong tù thì nói rằng các
hoạt động tôn giáo ít khi được cho phép trong tù; ngay cả việc nhận và giữ kinh
sách hay tài liệu tôn giáo cũng thường bị cấm. Vấn đề này rõ ràng cần được
chú ý nhiều hơn.
Việc tổ chức
giáo đoàn cho trại giam, nghĩa là chức sắc của các tôn giáo khác nhau giúp hỗ
trợ nhu cầu tinh thần cho phạm nhân, theo yêu cầu của phạm nhân, không tồn tại
ở Việt Nam. Tuy nhiên, đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam giải thích rằng
họ sẽ tăng cường việc phục vụ trong các trại giam, bao gồm việc thuyết giảng để
khai trí về xã hội và đạo đức cho phạm nhân. Các giáo sỹ Thiên Chúa giáo cũng
thỉnh thoảng làm lễ cho phạm nhân. Các mục sư Tin Lành tôi đã trao đổi về
vấn đề này cho biết họ không thấy có bất kỳ sự hỗ trợ tinh thần nào đối với
phạm nhân theo đạo Tin lành.
b) Quân nhân
Quân đội Việt
Nam không có hệ thống giáo đoàn quân đội để đáp ứng nhu cầu tôn giáo hay tinh
thần của quân nhân. Tuy nhiên, tương tự như trong trại giam, Giáo hội Phật giáo
Việt Nam có lẽ đang cố gắng tăng cường hoạt động này. Tôi được cho biết các vị
sư cầu nguyện cho quân nhân đang phục vụ tổ quốc trong những trường hợp phức
tạp. Họ cũng có thể dạy phương pháp thiền để giúp quân nhân khắc phục những khó
khăn trong nhiệm vụ và điều kiện sinh hoạt.
Từ chối không phục vụ trong quân đội với lý do lương tâm không được biết
đến ở Việt Nam, và không có phương án phục vụ dân sự cho các cá nhân phản đối
cầm vũ khí vì lý do lương tâm.
V. Báo cáo về các trường hợp vi phạm quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
Tôi đã được nghe một số cáo buộc nghiêm trọng về các vi
phạm cụ thể đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng ở Việt Nam. Các vi phạm được báo cáo
gồm có những vụ vây bắt nặng tay của công an; những trường hợp thường xuyên
được mời lên đồn công an “làm việc”; các hoạt động tôn giáo bị giám sát chặt
chẽ; các lễ hội và nghi thức làm lễ tôn giáo bị cắt ngang; các vụ giữ tại nhà,
đôi khi trong thời gian dài; các vụ bỏ tù, đôi khi cũng trong cả một quãng thời
gian dài; các vụ đánh đập và hành hung; bị mất việc làm; mất phúc lợi xã hội;
gây áp lực đối với những người trong gia đình; hành động phá hoại; phá dỡ những
nơi thờ tự, nghĩa trang và các nhà tang lễ; tịch thu tài sản; gây áp lực một
cách có hệ thống để phải từ bỏ một số hoạt động tôn giáo nhất định và chuyển
sang hoạt động theo các kênh chính thức được thiết lập cho việc thực hành tôn
giáo; và gây áp lực để bắt từ bỏ tôn giáo hay tín ngưỡng. Tôi cũng đã gặp một
tù nhân lương tâm tại trại giam nơi đang thụ án.
Các cáo buộc nói trên có mức độ khác nhau và được đưa ra
bởi những người thuộc các cộng đồng Phật giáo độc lập, các cá nhân thuộc nhiều
cộng đồng Tin lành (trong đó một số 12 cộng đồng đã được đăng ký chính thức),
một số nhóm Công giáo ở địa phương, những người thuộc các tổ chức Cao Đài độc
lập, một số người theo các rao giảng tôn giáo mới như Dương Văn Mình, và nhiều
nhóm khác. Do bị gây áp lực và bị khởi tố, một số người đã phải bỏ trốn hoặc
chạy ra nước ngoài do lý do tôn giáo. Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng việc đăng ký chính thức theo quy định của Chính
phủ không phải là điều kiện bảo đảm cho quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
được tôn trọng một cách đầy đủ.
Tôi muốn giải
thích rõ một thực tế rằng chuyến thăm quốc gia trong vai trò Báo cáo viên Đặc
biệt không phải nhằm mục đích đánh giá sâu các trường hợp cụ thể. Để phân tích
một cách toàn diện về các trường hợp cụ thể, cần phải có nhiều thông tin hơn
nữa để có một bức tranh đầy đủ về các sự kiện thực tế có liên quan và được nhìn
từ góc độ của tất cả các bên liên quan. Thay vào đó, mục đích chuyến thăm quốc
gia của Báo cáo viên Đặc biệt là để đánh giá mức độ tin cậy trong các cáo buộc
liên quan đến các vấn đề nhân quyền và lạm dụng nhân quyền. Không định kiến về
tính chính xác của tất cả các sự kiện thực tế của tất cả các trường hợp cụ thể
đã được báo cáo với tôi, tôi tin rằng, những vi phạm
nghiêm trọng đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng là một thực tế đang
diễn ra ở Việt Nam – nhất là ở các vùng nông thôn, tuy không phải chỉ có ở nông
thôn.
Đánh giá chung
này không chỉ dựa trên các cuộc phỏng vấn và các tư liệu mà tôi nhận được từ
những người bảo vệ nhân quyền và thành viên của nhiều cộng đồng tôn giáo khác
nhau, mà còn liên quan mật thiết đến những quan sát một cách có hệ thống mà tôi
đã mô tả ở phần đầu của tuyên bố báo chí này, bao gồm:
- thái độ nhìn chung là tiêu cực và tùy tiện đối với các quyền của các nhóm
thiểu số và cá nhân thực hành tôn giáo ngoài các kênh chính thức đã được thiết
lập;
- việc thường xuyên viện dẫn một cách thiếu cụ thể về “lợi ích của đa số”
hoặc lợi ích của “trật tự xã hội”;
- Các điều khoản hạn chế quá rộng về nhân quyền nói chung và quyền tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng nói riêng;
- Cách trình bày không rõ ràng trong Bộ luật Hình sự, cụ thể là Điều 258
liên quan đến việc “lạm dụng” tự do dân chủ;
- Hệ thống tư pháp chưa có cơ chế truy đòi khắc phục pháp lý đủ hiệu quả mà
người dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng, v.v.
Những điều kiện
đó đã tạo ra một cơ chế dễ gây tổn thương cho một số cá nhân và cộng đồng nhất
định, phù hợp với báo cáo về các vi phạm nói trên.
Trong bối cảnh
này, tôi muốn nhấn mạnh rằng thông qua nhiều cuộc trao đổi thảo luận của tôi
với các thành viên của các cộng đồng tôn giáo, mà một vài tổ chức trong số đó
đã chính thức đăng ký với chính quyền và thậm chí còn là thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, mọi người đã bộc lộ nhận thức chung về những hạn chế
hiện tại trong quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều
đáng ngạc nhiên hơn cả là các lãnh đạo
cấp cao của tòa án chưa hề nghe đến bất kỳ trường hợp nào một cáo buộc vi phạm
quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng đã được đưa ra tòa.
Một khía cạnh
quan trọng cũng được nhắc đến trong nhiều cuộc thảo luận, đó là sự phân chia
giữa nông thôn với thành thị. Điều kiện hoạt động của các cộng đồng tôn giáo có
thể rất khác nhau, tùy theo thông lệ ở các địa phương khác nhau trong nước.
Ngoài ra, các chính sách của Ban Tôn giáo Chính phủ trung ương dường như chưa
được phổ biến một cách hiệu quả xuống các cấp chính quyền địa phương.
VI. Nhận xét kết luận
Điều khoản tham chiếu cho chuyến thăm quốc gia của Báo
cáo viên Đặc biệt có các yêu cầu đảm bảo “việc tiếp xúc một cách bí mật và
không bị giám sát với các nhân chứng và nguồn tin riêng” và “Chính phủ phải bảo
đảm rằng trong số những người đã tiếp xúc chính thức hoặc tiếp xúc riêng với
Báo cáo viên Đặc biệt […] trong các dịp có liên quan đến nhiệm vụ của Báo cáo
viên đặc biệt sẽ không có một ai bị đe dọa, sách nhiễu, trừng phạt, hoặc phải
chịu các thủ tục tố tụng tư pháp do đã gặp Báo cáo viên Đặc biệt”. Những
điều kiện này đã không
được tôn trọng, như tôi đã đề cập ở trên, với sự vi phạm nguyên tắc bảo
mật. Do đó phần sau của chuyến thăm quốc gia đã bị gián đoạn.
Sự gián đoạn
này càng đáng tiếc hơn vì tôi đã nhận thấy một số chuyển biến tích cực ở cấp
trung ương. Hầu hết các đại diện của các cộng đồng tôn giáo đều đồng ý rằng,
mặc dù có những vấn đề nghiêm trọng còn đang tồn tại nhưng điều kiện thực hành
tôn giáo của họ đã được cải thiện trong những năm gần đây. Các cộng đồng tôn
giáo bị cấm hoạt động sau năm 1975 hiện nay đã được phép hoạt động. Hơn nữa,
một số đại diện của các cơ quan Chính phủ đã bày tỏ mong muốn xem xét những
thay đổi trọng yếu trong quá trình thay thế Pháp lệnh Tôn giáo và Tín ngưỡng
hiện nay bằng một luật mới để điều chỉnh những vấn đề này. Thực sự không nên bỏ
lỡ một cơ hội như thế, vì đó có thể là một bước ngoặt để Việt Nam bảo vệ quyền
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
Phép thử để đánh giá sự phát triển quyền tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng ở Việt Nam là điều kiện hoạt động của các cộng đồng tôn giáo độc
lập. Theo tình hình hiện nay, khả năng để họ hoạt động như các cộng đồng độc
lập rất không an toàn và rất hạn chế; điều này rõ ràng là một vi phạm đối với
Điều 18 của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam là một
quốc gia thành viên. Văn bản luật sắp được xây dựng về tôn giáo và tín ngưỡng
cần làm rõ rằng việc đăng ký với chính quyền là một đề nghị, chứ không phải là
một yêu cầu pháp lý. Đồng thời, các cộng đồng cần có nhiều phương án lựa chọn
khác đáng tin cậy và dễ tiếp cận để đạt được tư cách pháp nhân nhằm xây dựng hạ
tầng thích hợp. Một ưu tiên hiển nhiên khác là xây dựng một cơ chế truy đòi
khắc phục pháp lý hữu hiệu và dễ tiếp cận nhằm sửa chữa điều chỉnh những vi
phạm đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của các cá nhân hay nhóm
người.
Để kết luận,
tôi xin nhắc lại lời cảm ơn đối với Chính phủ Việt Nam đã mời tôi thực hiện
chuyến thăm quốc gia này. Tôi tin rằng Chính phủ sẽ
thực hiện đúng những yêu cầu bảo đảm cho tất
cả những ai đã làm việc cùng tôi trong chuyến thăm này và những ai đã gặp và
tiếp xúc với tôi trong chuyến công tác này sẽ không bị đe dọa, sách nhiễu,
trừng phạt hoặc phải chịu các thủ tục tố tụng tư pháp sau chuyến thăm quốc gia
này. Tôi sẽ tiếp tục liên hệ với họ và theo dõi sự an toàn của họ. Bất kỳ sự cố
nào có tính trả thù đều sẽ được báo cáo lên Hội đồng Nhân quyền và Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc.
Tôi vui mừng
nếu được đóng góp ý kiến chuyên môn của tôi với tư cách là Báo cáo viên Đặc
biệt trong tiến trình Chính phủ Việt Nam cải thiện các điều kiện pháp lý và hạ
tầng nhằm thúc đẩy quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng cho tất cả mọi người.
Tôi cũng sẽ tiếp tục làm việc với Chính phủ Việt Nam trên tinh thần hợp tác xây
dựng.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1 Bản Hiến pháp sửa đổi đã được Quốc Hội
thông qua ngày 28/11/2013.
2 Xem điều 38 Pháp lệnh Tôn giáo và Tín ngưỡng: “Trong
trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết
hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện
theo quy định của điều ước đó.”
3 Điều 18, khoản 3 ICCPR.
4 Điều 14, khoản 2 Hiến pháp 2013.
5 Điều 16 khoản 1 Pháp lệnh
Tôn giáo và Tín ngưỡng quy định như sau:
1. Tổ chức được công nhận
là tổ chức tôn giáo khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là tổ chức của những
người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi không trái với thuần
phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc;
b) Có hiến chương, điều lệ
thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không
trái với quy định của pháp luật;
c) Có đăng ký hoạt động tôn
giáo và hoạt động tôn giáo ổn định;
d) Có trụ sở, tổ chức và
người đại diện hợp pháp;
đ) Có tên gọi không trùng với tên gọi của tổ
chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
-------------------------------------------------------------------------------------
Tự do Tôn giáo tại Việt Nam theo
phúc trình của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ
Thanh Trúc, phóng viên RFA
2014-07-31
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry báo
cáo bản phúc trình thường niên 2013 về tự do tôn giáo quốc tế tại Bộ Ngoại giao
ở Washington, DC, ngày 28 tháng 7 2014.
Courtesy Religionnews.com
Hôm
thứ Hai ngày 28 Bộ Ngoại Giao Mỹ công bố phúc trình thường niên về tình hình tự
do tôn giáo thế giới năm 2013, trong đó có tình hình tự do tôn giáo tại Việt
Nam.
Mạng
Lưới Nhân Quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ đã có ý kiến về bản phúc trình này phần đề
cập đến Việt Nam trong bài phỏng vấn do Thanh Trúc thực hiện. Ông Nguyễn Bá
Tùng, trưởng ban phối hợp Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam, nhận xét tổng quát:
Bản
báo cáo năm này theo nhận xét sơ khởi của chúng tôi thì giọng điệu điệu cũng
như những sự kiện đưa ra đã làm cho vấn đề sự thực về tự do tôn giáo ở Việt Nam
có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Chẳng
hạn trong phần dẫn nhập, trước đây tên Việt Nam được nêu lên trong những quốc
gia có vi phạm tự do tôn giáo, thì năm này tìm trong phần dẫn nhập đó không
thấy tên Việt Nam. Năm 2006, tên Việt Nam được lấy ra khỏi danh sách những quốc
gia đáng quan tâm vì thiếu tự do tôn giáo, dù vậy tên Việt Nam vẫn được nhắc
đến trong phần dẫn nhập tổng quát của bản báo cáo như một trong những quốc gia
có vấn đề, nhưng năm này thì không, đó là nhận xét sơ khởi của chúng tôi.
áo
cáo nói rõ cố gắng của chính quyền Mỹ làm sao thúc đẩy nhà nước VN tôn trọng
quyền tự do tôn giáo, tôn trong hoạt động của các tổ chức tôn giáo, qua việc họ
thường xuyên gặp gỡ lãnh đạo các tôn giáo và những người đấu tranh cho tự do
tôn giáo
Ông
Nguyễn Bá Tùng
Thanh
Trúc: Qua nhận xét sơ khởi đó phải
chăng Bộ Ngoại Giao Mỹ đã không còn liệt Việt Nam vào những quốc gia cần được
nhắc đến vì thiếu tự do tôn giáo ?
Ông
Nguyễn Bá Tùng: Đúng, bản báo cáo nói rõ có những
tiến bộ về tự do tôn giáo, cái đó là có giấy trắng mực đen. Tuy nhiên khi đọc
chúng tôi cũng thấy có những điểm tích cực chẳng hạn báo cáo nói đến những khó
khăn mà nhà nước đặt ra cho các tổ chức tôn giáo qua vấn đề pháp luật. Chẳng
hạn Nghị Định 92 được nêu lên, trong đó báo cáo đưa ra nhận xét của các tổ chức
tôn giáo, của những người đấu tranh tôn giáo, đối với Nghị Định này.
Ông Nguyễn Bá Tùng, trưởng ban phối
hợp Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam
Điểm
thứ hai, báo cáo nói rõ cố gắng của chính quyền Mỹ làm sao thúc đẩy nhà nước
Việt Nam tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tôn trong hoạt động của các tổ chức
tôn giáo, qua việc họ thường xuyên gặp gỡ lãnh đạo các tôn giáo và những người
đấu tranh cho tự do tôn giáo, cũng như họ không bỏ lỡ cơ hội nào khi tiếp xúc
với nhà cầm quyền Việt Nam để đặt lại vấn đề. Đó là những điểm tích cực, thể
hiện qua bản báo cáo về tự do tôn giáo thế giới năm này, đặc biệt phần của Việt
Nam.
Thanh
Trúc: Thế những điểm tiêu cực hay là
chưa trung thực cần phải nói cho rõ hơn, thưa ông Nguyễn Bá Tùng?
Ông
Nguyễn Bá Tùng: Dĩ nhiên có những điểm mà chúng tôi
cảm thấy hoặc không đúng sự thực hoặc là thiếu sót. Chẳng hạn như bản báo cáo
nói rõ không hề có vấn đề giao dục chủ nghĩa vô thần trong các trường học công.
Cái đó hoàn toàn sai sự thực là vì chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên
duy vật vô thần. Chủ nghĩa duy vật vô thần bài bác tôn giáo, là chủ thuyết dẫn
đạo của chế độ họ phải chấp nhận và bị nhồi sọ bởi chủ nghĩa đó. Không thể nói
rằng không có vấn đề giáo dục về chủ nghĩa vô thần trong các trường học công
lập ở Việt Nam.
Bản
báo cáo nói rõ không hề có vấn đề giao dục chủ nghĩa vô thần trong các trường
học công. Cái đó hoàn toàn sai sự thực là vì chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
dựa trên duy vật vô thần
Ông
Nguyễn Bá Tùng
Một
chi tiết nhỏ thứ hai, báo cáo khi nói về vấn đề tự do thờ phượng của các tù
nhân họ lại nói là có trường hợp các tù nhân được hành xử quyền tự do tôn giáo
của mình trong các trại giam. Họ đơn cử trường hợp linh mục Nguyễn Văn Lý được
phép cử hành thánh lễ và trao bánh thánh cho các bạn đồng tù. Chúng tôi có liên
lạc với linh mục Phan Văn Lợi ở Việt Nam hôm qua. Linh mục Phan Văn Lợi, là
người bạn chiến đấu của linh mục Nguyễn Văn Lý, xác nhận rằng linh mục Nguyễn
Văn Lý hiện đang bị biệt giam thì làm sao mà có bạn tù để trao Mình Thánh Chúa?
Đó
là những chi tiết nhỏ nhưng điều quan trọng hơn hết là ở chương thứ 3, họ nói
rằng không hế có vấn đề phân biệt đối xử đối với những người có niềm tin tôn
giáo. Nhận xét này hơi quá đáng và sai sự thực. Trong bản báo cáo của Mạng Lưới
Nhân Quyền năm nay chúng tôi đã nói đến sự phân biệt đối xử dựa trên ba yếu tố:
thứ nhất là chính trị, rồi phân biệt dựa trên yếu tố sắc tộc đối với đồng bào
thiểu số, và quan trọng hơn hết là họ đã phân biệt đối xử với người dân dựa
trên niềm tin tôn giáo của các người dân đó.
Ví
dụ ở những nơi, chẳng hạn như ở tỉnh Đồng Nai, nơi tập trung cao số người theo
Thiên Chúa giáo. Có đến 850,000 giáo dân tại tỉnh Đồng Nai tức một phần ba dân
số của tỉnh đó, mà thử hỏi có người Công giáo nào làm đến chức cao hơn là chủ
tịch ủy ban nhân dân xã hay không? Như vậy không phải vì vấn đề họ là người
Công giáo họ không được tham dự vào chính quyền, không được tham dự vào guồng
máy nhà nước, thì làm sao mà nói không có sự phân biệt đối xử dựa trên niềm tin
tôn giáo? Đó là những điều sai sự thực.
Bản
báo cáo của Mạng Lưới NQ chúng tôi cũng như nhiều bản báo cáo khác về vấn đề tự
do tôn giáo tại VN 2013 đã được công bố trước đó một thời gian khá dài. Như vậy
rõ ràng không phải những người làm báo cáo không biết nhưng mà họ không đưa vào
trong bàn báo cáo của Bộ Ngoại Giao HK...sự bỏ sót này là sự bỏ sót cố ý
Thanh
Trúc: Bây giờ nói về những vấn đề ông
gọi là thiếu sót trong báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về tự do tôn giáo thế
giới. Phần riêng về Việt Nam ông thấy thiếu sót ở chỗ nào?
Ông
Nguyễn Bá Tùng: Thiếu sót hoặc bất cập trước hết là
khi họ đề cập đến các vụ đàn áp tôn giáo, họ bỏ qua hai vụ chúng tôi cho là lớn
nhất trong năm 2013 tại Việt Nam. Thứ nhất, vụ đàn áp giao dân Công giáo tại
Giáo xứ Mỹ Yên ở Giáo phân Vinh, trong đó có đến mấy chục người phải nhập viện
vì bị thương do công an và các lực lượng an ninh khác gây nên.
Vụ
án quan trọng nhất về tự do tôn giáo ở Việt Nam năm 2013 là vụ Hội Đồng Công
Luật Công Án Bia Sơn ở Phú Yên. Có đến 22 người thuộc giao phái Hội Đồng Công
Luật Công Án Bia Sơn bị xử án rất nặng nề. Đó là hai vụ mà chúng tôi cho rằng
thể hiện sự đàn áp tự do tôn giáo tại Việt Nam rõ rệt nhất mà báo cáo của Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ năm này không đề cập đến một chi tiết nào cũng không nhắc đến
tên.
Nhưng,
một thiếu sót quan trọng nhất là khi đề cập đến các phương thức nhà nước dùng
để kiểm soát các sinh hoạt tôn giáo, thì bản báo cáo chỉ nói đến các luật lệ mà
bỏ quên hoạt động mà các tổ chức nhà nước dùng để kiểm soát các giáo hội.
Tôi
muốn nói đến Ủy Ban Tôn Giáo Nhà Nước, Mặt Trận Tổ Quốc và các tổ chức lệ thuộc
chẳng hạn như ủy ban Công giáo yêu nước hay ủy ban Phật giáo yêu nước vân
vân…Đứng đầu tổ chức của Ủy Ban Tôn Giáo Nhà Nước là ai? Hiện bây giờ là trung
tướng Phạm Dũng, từng là tổng cục trưởng Tổng Cục An Ninh 2 thuộc Bộ Công An.
Một ông tướng công an đứng đầu một tổ chức lo về tôn giáo thì điều đó có nghĩa
gì? Đặt câu hỏi như vậy thì đã có câu trả lời.
Báo
cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố ngày 28 tháng Bảy 2014. Bản báo cáo của
Mạng Lưới Nhân Quyền chúng tôi cũng như nhiều bản báo cáo khác về vấn đề tự do
tôn giáo tại Việt Nam 2013 đã được công bố trước đó một thời gian khá dài. Như
vậy rõ ràng không phải những người làm báo cáo không biết nhưng mà họ không đưa
vào trong bàn báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Theo chúng tôi nhận xét sự bỏ
sót này là sự bỏ sót cố ý.
Thanh
Trúc: Xin cảm ơn ông Nguyễn Bá Tùng.