Tuesday, March 31, 2015

AI GÂY RA NẠN ĐÓI KINH HÒANG NĂM ẤT DẬU 1945?

ai gây ra nạn đói kinh hòang năm ất dậu 1945?












TRẬN ĐÓI THÁNG BA NĂM ẤT DẬU 1945

GS PHẠM CAO DƯƠNG
- See more at: http://www.dienhongthoidai.com/2015/03/ai-gay-ra-nan-oi-nam-at-dau-1945.html#sthash.SwHg38uF.dpuf

TRẬN ĐÓI THÁNG BA NĂM ẤT DẬU 1945

GS PHẠM CAO DƯƠNG

     Ðây là trận đói thê thảm nhất và khủng khiếp chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam với hàng triệu người đã bị bỏ mạng, đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân chính đã đưa tới biến cố 19 tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, và tình trạng hiện thời của một nước Việt Nam lẽ ra ra đã có tự do, dân chủ và tiến bộ từ bảy mươi năm trước. Ðây cũng là một trang sử mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nên đọc, tìm hiểu và ghi nhớ. Không đọc, không hiểu và không ghi nhớ trang sử này người ta sẽ không hiểu được bản chất của Cách Mạng Tháng Tám và biến cố Việt Minh cướp chính quyền sau đó. Những câu hỏi cần được đặt ra là do đâu có nạn đói này? Nạn đói đã diễn ra như thế nào và được người Việt đương thời kể lại ra sao? và Cộng Sản Việt Minh đã thực sự làm gì trước tình cảnh thê thảm của đồng bào ta thời đó?
Do đâu có trận đói này?
Xảy ra dưới thời Vua Bảo Ðại và chính phủ Trần Trọng Kim nhưng thực sự trận đói này đã có nguồn gốc từ lâu trước đó còn chính phủ Trần Trọng Kim, một cách oan khuất, đã phải lãnh chịu tất cả mọi hậu quả, nhất là bị trách cứ là tay sai của Nhật, là bất lực. Trong khi đó thì Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản đã lợi dụng cơ hội tuyên truyền, sách động quần chúng, cướp chính quyền khi Nhật Bản đầu hàng.
Nói rằng trận đói này có nguồn gốc từ lâu là vì đồng bằng Bắc Kỳ và ba tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh dân số vốn dĩ đã đông, lại tăng thêm nhiều trong những năm cuối thập niên 1930 đầu thập niên 1940 trong khi diện tích canh tác lúa gạo hầu như không thay đổi, kỹ thuật sản xuất cho tới thời điểm này vẫn còn lạc hậu, sản lượng lúa gạo trong những năm bình thường chỉ vừa đủ cho người dân sống dưới khẩu phần trung bình cần thiết cho mỗi cá nhân. Ngô, khoai, sắn, đậu... phải được dùng để ăn độn thêm; nhiều khi những thứ này không còn đủ, họ phải ăn cám. Tại sao lại phải ăn độn thêm? Ta có thể giải thích dựa theo những con số do Y. Henry và De Visme cung cấp. Theo hai ông này, nếu khẩu phần trung bình cần thiết cho một người trong một năm là 337 kg thóc, tương xứng với 223 kg gạo thì người nông dân Việt Nam trong suốt thời kỳ Pháp thuộc không bao giờ có được khẩu phần này. Ngay từ năm 1900 con số đã giảm xuống còn 262 kg, năm 1913 còn 226 kg, và đến năm 1937 còn 182 kg. Ðây chỉ là những con số tính chung cho toàn cõi Ðông Pháp. Ở những nơi đông dân như Bắc Kỳ và miền Bắc Trung Kỳ, tình trạng thiếu ăn này còn trầm trọng hơn nhiều. Khoảng năm 1937, khẩu phần trung bình ở Bắc Kỳ chỉ có 217 kg thóc, tương đương với 143.5 kg gạo và ở Trung Kỳ là 223 kg thóc hay 154 kg gạo một năm. (1) Về phía người Việt Nam, Nghiêm Xuân Yêm, một chuyên gia nông nghiệp tốt nghiệp trường Cao Ðẳng Nông Lâm đương thời, sau này là bộ trưởng Canh Nông trong chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong các thập niên 1950, 1960, trong một bài viết đăng trên tờ Thanh Nghị, số 107, ra ngày 5 Tháng Năm 1945, nhan đề “Nạn Dân Ðói, Một Vài Nhận Xét và Thiển Kiến Về Vấn đề Thóc Gạo” cũng đưa ra nhận xét tương tự. Ông viết:
“Toàn xứ chỉ có ba tỉnh dưới đây là đại khái có thóc gạo vừa vặn đủ ăn không thừa để bán sang địa hạt tỉnh khác và cũng không phải đong thêm ở các tỉnh lân cận nào:
1) Bắc Ninh sản xuất: 800,000 tạ thóc, dân số: 480,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 192 kg thóc.
2) Phú Thọ sản xuất: 494,000 tạ thóc, dân số: 203,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 187 kg thóc.
3) Sơn Tây sản xuất 528,000 tạ thóc, dân số: 270,000 người, mỗi miệng ăn cả năm được 195 kg thóc.
Trung bình, cả 3 tỉnh, mỗi người dân 191 kg thóc một năm, vào khoảng 840grs gạo một ngày. Sở dĩ dân 3 tỉnh ấy đủ no với số gạo 840 grs một ngày là vì 3 tỉnh ấy trồng trọt được nhiều hoa mầu ngô, khoai, sắn... Còn các tỉnh khác đều kém ruộng trồng mầu cả. Vậy nếu ta căn cứ vào 3 tỉnh đủ ăn ấy, ta nhận thấy rằng: dù kể cả ngô khoai, sắn ăn lẫn với gạo thì theo sức sản xuất của mọi trồng trọt, mỗi người dân xứ ta vẫn còn cần phải được ít ra 191 kg thóc. Nghĩa là nếu ở toàn xứ, mọi sự trồng trọt hoa mầu dầu được tương tự bằng ở 3 tỉnh Bắc Ninh, Phú Thọ, Sơn Tây để có thể có đủ thức ăn độn thì dân cũng cần phải có tới 17,000,000 tạ thóc để ăn. Tóm lại đổ đồng hàng năm ta vẫn còn thiếu mất: 17,000,000 - 14,500,000 = 2,500,000 tạ thóc. Nhưng sự thực dân ta vẫn còn bị thiếu hơn vì các tỉnh khác có trồng được ngô khoai tương tự bằng 3 tỉnh kể trên đâu. Vậy ta có thể quả quyết nói rằng mỗi năm xứ Bắc này thiếu mất 3,000,000 tạ thóc là ít.
“Tôi xin nhắc lại rằng vì trong quá nửa nồi cơm của dân quê ta có trộn ngô khoai nên trên đây chúng ta mới tính thấy dân chỉ thiếu có ngần ấy thóc, chứ tôi chắc ai ai cũng biết rằng ăn độn ngô, khoai là một việc bất đắc dĩ. Vì ở các nước ngoài, những thứ kể trên thường chỉ dành riêng cho ngựa, bò hay lợn ăn thôi và gượng gạo dân quê ta thực trạng vẫn sống không bằng đàn gia súc của người ngoài. Bởi vì bình thường dân ta cũng đã thiếu ăn như thế nên hễ rủi gặp trận bão lụt... ắt nạn đói bùng lên nhất là từ hồi người Pháp mượn cớ chiến tranh lập ra chính sách thu thóc một cách tàn ác thái quá thì ròng rã mấy năm nay nông dân mỗi ngày một lâm vào cảnh cơ cực cùng quẫn và đến nỗi ở khắp đồng nội, thành thị ngày nay mới thấy những thảm trạng thây chết nằm ngổn ngang và người sống vất vưởng nheo nhóc như những hồn ma xuất hiện. Hàng triệu sinh linh ngày nay tranh ăn hết phần của súc vật. Cám, bã đậu phụ, rau chuối, củ chuối... là những thức ăn của lợn. Bây giờ dân ăn cơm độn với cám, ăn bánh đúc cám và cháo cám. Củ chuối ở Trung châu bị đào, ngoáy lên chừng sắp hết nên có người đã buôn củ chuối từ Trung du về xuôi với cái giá $150 một tạ. Vì người ta tranh ăn hết phần của chúng, nên lợn, chó, gà, vịt đều phải chết, và thịt thà trở nên một ngày một khan.”. Riêng chuyện ăn cám đã được nhà văn Lãng Nhân ghi trong một bài viết đăng trong Ðông Dương Tạp Chí, ngày 13 tháng 11 năm 1937, nhan đề “Lời Người Bán Cám” nguyên văn như sau: “Trong mấy năm nay, từ khi xảy ra nạn kinh tế đến giờ, chúng tôi buôn cám thật chạy tay. Những người đến mua không phải là mua về cho lợn, họ mua về để ăn. Gạo đắt quá, ngô khoai cũng đắt, nhiều người nhà quê phải đành ăn cám. Miễn là đầy bụng thì thôi. Mà ông lại nên biết rằng ăn cám cũng chia làm ba hạng người: Một hạng kiếm được dăm ba xu một ngày, mua cám về nấu lên với rau mà ăn, như lối ăn của lợn nhà giàu. Hạng nữa kiếm được hai ba xu một ngày chỉ trộn cám với nước lã rồi ăn như lối ăn của lợn nhà nghèo. Còn hạng thứ ba là gồm có những người như ông vừa thấy đó, nghĩa là những người không kiếm được xu nào cả, ngày hai buổi đi ngang qua dãy hàng cám, dừng lại mỗi nhà một lúc, mặc cả một đôi câu rồi vốc lấy ít cám bỏ mồm làm như để nếm. Cứ thế vừa đi hết dãy là no.
“Ở thành Nam là nơi không lụt lội mà còn bao nhiêu người ăn cám, không biết ở nơi bèo trôi sóng vỗ người ta được ăn những gì? “Xét ra người nhà quê phần nhiều phải ăn cám cũng là lẽ tất nhiên. Ði gặt hái một ngày chỉ kiếm được ba xu, khi không phải mùa gặt hái thì đi đánh giậm, một buổi khéo lắm được mười xóc cua, đem bán ba xu. Ba xu mà nuôi cha già, con dại, ba xu mà vợ đẻ con sài, ba xu mà đóng góp với làng, thật là ăn cám cũng không xong. Nào có được đâu một ‘số lương ít nhất’ như thợ thuyền. Nào có được như thợ thuyền làm có giờ, chơi có buổi! Lại cũng không họp được đoàn thể mà yêu cầu, không đình công được mà phản kháng. Quan bắt đi đê thì phải bỏ hết mà ra đê, có ‘cụ’ nào về kinh lý thì lại phải đẵn tre, vác cờ đi hàng chục cây số để bày hương án, kết cổng chào, tỏ lòng khuất phục! Bấy nhiêu việc đều là không công.” (2)
Tình trạng bấp bênh, trên bờ vực của đói kém này dễ trở thành trầm trọng hơn khi có những đại nạn bất ngờ xảy ra như hạn hán, lụt lội, bão táp, (3) côn trùng... phá hại mùa màng hay giặc giã cướp phá trong đó có sự cướp phá các kho thóc của Việt Minh, làm mất an ninh. Tất cả những tác tố này đã xảy ra từ những năm trước năm 1945 và đã trở thành trầm trọng hơn với sự bùng nổ của Thế Chiến Thứ Hai và sự hiện diện của quân đội Nhật. Nhu cầu tiêu thụ của quân đội Nhật, sự cưỡng bách người dân nộp và tích trữ gạo của cả người Nhật lẫn người Pháp, việc người Nhật ép buộc người dân phải bỏ ruộng trồng lúa để trồng đay, trồng thầu dầu hay đậu phọng và sản xuất thêm rượu do nhu cầu của chiến tranh, nạn máy nay Mỹ oanh tạc đường biển và đường xe lửa Bắc-Nam hàng ngày khiến gạo từ miền Nam không chở ra để tiếp tế cho miền Bắc như trong những năm bình thường (4), nạn lũng đoạn của gian thương, nhất là gian thương người Tàu là những nguyên nhân chính yếu đã được ghi nhận, đặc biệt là từ sau năm 1943.
Diễn tiến và thảm cảnh của trận đói
Bắt đầu từ mùa Ðông năm 1944 nạn đói đã lan rộng và trở nên mỗi ngày một trầm trọng hơn. Từ miền quê nạn khan hiếm gạo đã lan đến các thành thị và luôn cả thủ đô Hà Nội. Ðoàn Thêm, một công chức trẻ của Phủ Toàn Quyền đương thời, một trong số rất nhiều nhân chứng sống đã ghi lại hiện tượng này ở ngay Hà Nội như sau: “Từ Tháng Chạp (1944) không thấy bóng chị hàng sáo quen vẫn quảy gạo trắng từ ngoại-ô vào Hà-nội bán cho gia đình tôi; nghe nói thôn-quê không còn dư để cung cấp cho thành-phố nữa. Nên người nhà tôi phải đi đong gạo tiếp-tế vừa đỏ vừa rắn, lại phải mang thẻ phân phối đứng nối đuôi dài trước tiệm buôn lẻ và chầu chực hàng giờ; có khi đợi lâu quá, đành trả một vài hào (cắc) cho người đến trước để được nhường chỗ. Chỗ đứng cũng bị đầu-cơ do những kẻ chuyên đi choán sớm để buộc người nóng ruột bỏ tiền ra mua quyền ưu-tiên.” (5) Nhưng đó chỉ là buổi đầu, sau đó là dân quê rủ nhau tới các thành phố để kiếm ăn, vì tưởng ở đây thừa gạo dự trữ để cứu trợ, cũng theo lời kể của Ðoàn Thêm.
“Các hội thiện phải lập những trại tạm-trú ở quanh thành phố, như tại xã Giáp-nhất, Giáp-nhì, Giáp-bát, bãi cát Phúc-xá bên sông Nhị-hà: hàng ngàn người cầu thực được chứa tại đó, và cấp cháo nấu bằng gạo lạc-quyên. Nhưng số người cứ tăng mãi, cứu tế làm sao cho đủ? Bao hành khất hốc-hác như bộ xương ma, được đồng tiền không lấy, chỉ xin cơm. Một ông già đã quá đuối sức vừa nhận nắm xôi chưa kịp bỏ vào mồm, đã lăn ra tắt thở. Nhiều thây gục chết ở đầu hè, góc chợ, được chở ra nhà xác thủ-đô. Ở nhiều vùng dân chết cả nhà, cả xóm, hay gần cả làng. Hết gạo, hết khoai, hết chó mèo, hết chim, hết chuột, hết củ chuối, người ta làm thịt... con nít. Sự thảm khốc này dĩ nhiên là khó tin. Nhưng tới năm 1947, nhân dịp chạy tản cư về hạt Xuân-trường tỉnh Nam Ðịnh, tôi đã có lần bước vào một ngôi nhà trống. Hỏi vì sao nơi đây hoang vắng, thì được mách rằng không ai dám đến ở, vì cả gia đình khổ-chủ đã chết từ năm 1945 sau khi nấu một đứa con nhỏ làm món nhựa mận ăn cho đỡ đói.” (6)
Chưa hết, bên cạnh cái đói là cái rét. Chưa bao giờ miền Bắc lại rét như vậy. Ngày Tết Nguyên Ðán năm Ất Dậu (13 tháng 2, 1945) nhiệt độ được ghi nhận là 4 độ ở Hà Nội. (7) Ngay cả Văn Cao, tác giả của bài Tiến Quân Ca, nhạc phẩm sau này trở thành quốc ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và tiếp theo là của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông cũng là tác giả của rất nhiều bài hát trữ tình nổi tiếng nhất Việt Nam đương thời và sau này, cũng đã là nạn nhân của cả hai nạn đói và rét này. Người nhạc sĩ được nhiều người kính trọng và yêu mến đã kể lại hoàn cảnh của chính ông như sau: “Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ mặc nguyên quần áo. Có đêm phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Ðêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu...” (8) với những gì ông nhìn thấy ở Hà Nội, chung quanh ông: Bên một gốc cây bóng những người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái vỏ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mặt. Có một đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Ðôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh giẻ che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong số người chết dọc đường Nam Ðịnh-Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Tin từ Nam Ðịnh lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và đang đói. Họ đang phải tìm mọi cách để sống qua ngày như mọi người đang chờ một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến.” (9) Chính trong hoàn cảnh bi đát này, Vũ Quí, một cán bộ Cộng Sản, vốn đã theo dõi hoạt động của Văn Cao từ lâu, đã xuất hiện, đưa Văn Cao vào một tiệm ăn và người nhạc sĩ này đã nhận thoát ly, gia nhập Việt Minh, sáng tác bài Tiến Quân Ca và tham gia Ðội Danh Dự, ám sát Ðỗ Ðức Phin... như sẽ được trình bày trong một bài sau.
Cũng trong năm 1945 này, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, ngày 8 tháng 4, đã ghi trong nhật ký của ông khi ông lên thăm Tô Hoài và Nam Cao như sau: “Dọc đường toàn những cảnh đói. Tiếng khóc như đám ma. Những bà cụ mếu máo, những trẻ trần truồng rúc đầu góc tường, hay nằm trong chiếu, những đôi bố con cũng trần truồng nằm vệ đường, những thây chết cong queo, những cái thai trong bụng mẹ, giơ tay một cách dọa nạt. Muốn chụp ảnh,” (10) rồi non một tháng sau, ngày 12 tháng 5, Nguyễn Huy Tưởng ghi thêm: Nhiều cảnh ăn thịt người. Cảm thấy như mang lỗi khi làm tiểu thuyết giữa lúc số phận đất nước đang nguy ngập chưa biết định đoạt ra sao” (11)
Vũ Ðình Hòe, một trong năm người sáng lập và chủ trương tờ Thanh Nghị đã nói ở trên cũng cho biết: “Các báo hàng ngày luôn luôn phản ảnh bức tranh vô cùng ảm đạm của cảnh chết đói đầy đường ở nông thôn các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Từng bọn người rách rưới, thân hình khô đét, đen thủi; vợ chồng con cái dắt díu đi ăn xin ở đường phố Hà Nội, hoặc lê la vào các chợ nhặt lá bánh từ các đống rác đầy ruồi nhặng. Xe bò của các hội từ thiện mỗi buổi sáng đi nhặt xác chết, sau khi đã phân phát hết những nắm cơn nhão, những bát cháo loãng chở trên xe cho những người còn lết đi được hoặc còn thoi thóp.” (12)
Ðói từ đó đã trở thành đề tài cho văn chương, thi ca và âm nhạc của Việt Nam đương thời và sau này, điển hình là nhạc sĩ Ngọc Bích với bài hát Con Ðò Ðưa Xác, Bàng Bá Lân với bài thơ Ðói...
Con số nạn nhân được hầu hết mọi người nói tới là hai triệu. Hai triệu trong số non 10 triệu người bị coi là một con số khủng khiếp vì nó tương đương với 20% dân số của miền Bắc và của hai tỉnh Thanh-Nghệ đương thời. Con số này, tuy nhiên bị nhiều người trong đó có sử gia Mỹ David G. Marr và sử gia Na Uy Stein Tonnesson cho là phóng đại bởi những nhà tuyên truyền Việt Minh. Ngay Hồ Chí Minh trong bản Tuyên Ngôn Ðộc lập của ông cũng đưa ra không những con số hai triệu mà còn “hơn” hai triệu. Thực sự người ta không biết con số nạn nhân là bao nhiêu vì thống kê chính xác và đầy đủ cho tới nay vẫn chưa tìm ra được nếu không nói là không có. Các quan lại cai trị địa phương do hoàn cảnh vô cùng nhiễu nhương, giao thông trở ngại, khó mà làm chủ được tình hình. Những con số người ta có được chỉ là vụn vặt của một số phủ, huyện, tỉnh gửi về Phủ Khâm Sai Bắc Bộ chứ không phải của toàn thể các tỉnh miền Bắc, chưa kể Thanh Hóa và Nghệ An. David G. Marr cho rằng con số đáng tin cậy hơn là một triệu, con số theo ông đã khủng khiếp lắm rồi vì nó tương đương với mười phần trăm dân số trong vùng cho một thời gian ngắn ngủi, vỏn vẹn có năm tháng. Sử gia này cũng viện dẫn những con số trích trong tài liệu dùng cho các viên chức của chính phủ Hồ Chí Minh thời đó như một triệu người ở miền Bắc và ba trăm ngàn ở miền Trung. Còn Stein Tonesson thì ước lượng thấp hơn, từ nửa triệu đến một triệu. (13) Các sử gia khác như Philippe Devillers thì con số là gần một triệu, (14) Joseph Buttinger là từ một triệu đến 2 triệu, còn dẫn theo Toàn Quyền Jean Decoux, là một triệu. (15) Sau này Fredrik Logeval, dẫn theo tài liệu của nhà cầm quyền đương thời, có lẽ là thời chính phủ Trần trọng Kim, vào tháng 5 năm 1945, (16) vào lúc nạn đói đã giảm bớt là 380,969 cho miền đồng bằng Bắc Kỳ, và sau một năm với các dữ liệu đầy đủ hơn là một triệu người cho miền Bắc và khoảng 300,000 cho miền Bắc Trung Kỳ. Trong những năm sau nữa con số leo lên tới hai triệu người cho khoảng thời gian là năm tháng của năm 1945. Trước đó sử gia Alexander B. Woodside đã đưa ra một biên độ lớn hơn là từ 400,000 đến 2 triệu cho hai năm 1944-1945. (17) Có điều con số hai triệu hay hơn hai triệu đã trở thành chính thức được công bố và được ghi trong sử sách của chính quyền Việt Minh thời đó, coi như tội ác gây ra bởi Thực Dân Pháp và Phát Xít Nhật, một mục tiêu tuyên truyền nhằm thúc đẩy quần chúng nổi lên chống lại không chỉ hai thế lực thống trị Việt Nam thời đó mà luôn cả chính quyền Bảo Ðại-Trần Trọng Kim sau này, một chính quyền bị Việt Minh tuyên truyền là bù nhìn, là Việt gian, tay sai của cả Pháp lẫn Nhật, tuyên truyền để dân chúng nổi lên giúp họ cướp chính quyền ngày 19 tháng 8 sau đó. (18) Thuật vận động của tổ chức này là “bám vào nạn đói kém, chính sách thu thóc, thu hạt dầu mà gây lòng phẫn uất của nhân dân, làm cho họ giác ngộ Nhật không giải phóng cho ta đâu, do đó đưa nhân dân ra đường tranh đấu...” (19) Tất cả là nhằm vào mục tiêu chính yếu là cướp chính quyền như họ sẽ thực hiện về sau này, kể cả sau khi Nhật Bản đã đầu hàng và chính quyền Bảo Ðại-Trần trọng Kim đã đương nhiên trở thành hoàn toàn độc lập.
Chính phủ Trần Trọng Kim và công tác cứu trợ
Cứu đói và luôn cả cứu rét do đó là hai công tác vô cùng khẩn cấp mà chính phủ Trần Trọng Kim phải làm và được mọi người trông đợi phải làm ngay từ khi mới được thành lập vì, như đã nói ở trên, nạn đói đã lên đến cực điểm vào tháng 3 năm đó đúng như tên nó được gọi: Trận Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu và vì “Tháng Ba bà già chết rét.” Hành động đầu tiên của chính phủ này là yêu cầu người Nhật bãi bỏ sự cưỡng bách bán gạo của họ ở miền Trung và miễn bán cho những ai có dưới 3 mẫu ruộng ở miền Bắc. Lý do là vì sự cưỡng bách này đã làm cho gạo trở thành khan hiếm có tiền cũng không mua được, kể cả trường hợp của các tổ chức cứu trợ. Mặt khác, một Ủy Ban Trung Ương Tiếp Trợ Nạn Nhân Miền Bắc do Từ Cung Hoàng Thái Hậu, thân mẫu của Hoàng Ðế Bảo Ðại làm chủ tịch danh dự, Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế Hồ Tá Khanh, làm phó chủ tịch, trụ sở đặt ở số 43 đường Paul Bet, Hà Nội. (20) Tiếp theo, ngày 7 tháng 6, Khâm Sai Bắc Bộ Phan Kế Toại ra nghị định bãi lệ nộp thóc cho chánh quyền, đồng thời cấm tích trữ quá 2 tấn thóc hoặc 1 tấn gạo, cho hàng sáo chuyên chở và bán gạo tự do, giá thóc cũng được ấn định từ $100 đến $130 mỗi tạ, giá gạo từ $150 đến $225 mỗi tạ, so với giá gạo chợ đen ở Hà Nội hồi tháng 5 trước đó là $600 một tạ gạo xấu, $800 một tạ gạo tốt. (21) Mặt khác, ngày 14 tháng 6, Bộ Trưởng Bộ Tiếp Tế Nguyễn Hữu Thí được đặc phái vào Saigon thu xếp việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc và việc di cư một triệu dân từ Bắc bộ và Trung Bộ vô Nam. (22) Ðây không phải là một việc làm dễ dàng vì cả ba đường xe lửa, đường bộ và đường biển đều bị không quân Mỹ thường xuyên oanh tạc. Người ta đã phải dùng các hải cảng nhỏ khác thay vì Saigon và các thuyền mành của tư nhân để chuyên chở thóc gạo ra Bắc.
Việt Minh và các cuộc cướp phá các kho thóc gạo
Nỗ lực đem gạo từ Nam ra Bắc tuy nhiên đã không mang lại được những kết quả mong muốn vì nó nằm ngoài tầm tay của người Việt chưa kể sự phá hoại của chính Việt Minh mà sử gia Mỹ David G. Marr đã ghi trong tác phẩm của ông căn cứ vào tài liệu của huyện Sơn Tịnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, theo đó Việt Minh đã chặn bắt nhiều thuyền chở gạo từ Nam ra Bắc, lấy hết gạo, đem giấu đi hay chở lên núi cho du kích của họ. (23) Ðiều này phù hợp với những gì hai tác giả Trần Hữu Ðính và Lê Trung Dũng viết trong Cách Mạng Tháng Tám 1945, Những sự kiện lịch sử như sau: “Ở các tỉnh miền núi Bắc Bộ như Cao Bằng, Sơn la, Thái Nguyên, Yên Bái, trong khi các lực lượng vũ trang cùng quần chúng nhân dân khởi nghĩa đánh đồn, chiếm huyện thì đều tiến hành phá các kho thóc, muối chia cho dân, hoặc tích trữ cho bộ đội, du kích.” (24)
Mục tiêu sau, mục tiêu “tích trữ cho bộ đội du kích” hầu như ít khi được các tác giả viết về hiện tượng Việt Minh xúi dân phá các kho thóc, gạo nhắc đến mặc dầu ai cũng biết nhu cầu tích trữ thóc gạo để dùng trong các chiến khu của Việt Minh để nuôi cán bộ và du kích ngay từ những ngày đầu là một mục tiêu tối cần thiết bên cạnh các mục tiêu kinh tài khác mà Nguyễn Lương Bằng, từ năm 1943, được Trường Chinh trao cho trách nhiệm kinh tài. Sư kiện này đã được người sau này sẽ là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kể lại và được tác giả Thép Mới ghi như sau: “Tôi từ làng Thượng Cát chỉ huy các mối buôn, thôi thì buôn đủ thứ, buôn gạo, buôn khô dầu, buôn dầu ve, dầu trẩu, buôn bè, buôn mật Mai Lĩnh bán vào Hà Nội, buôn gỗ trai làm lược bán về dưới chợ Bằng.” (25) Nên để ý là Việt Minh ở các chiến khu hồi này rất cần tiền để duy trì và phát triển các sinh hoạt của họ vì, cũng theo Nguyễn Lương Bằng qua hồi ký kể trên, vào khoảng cuối năm 1943, đầu năm 1944, khi được Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt phân công “phụ trách dân vận một bộ phận an toàn khu, phụ trách binh vận và phục trách về tài chính,” ông có hỏi “quỹ của Ðảng ta còn bao nhiêu tiền” thì được Trường Chinh trả lời “Tất cả còn hai mươi bốn đồng.” (26)
Câu hỏi được đặt ra ở đây là những hoạt động kinh tài này có ảnh hưởng gì tới sự gia tăng của giá bán và nạn khan hiếm lúa gạo hay không và lượng gạo do những tổ chức của Nguyễn Lương Bằng bán ra có phải là gạo cướp từ các kho chứa của nhà nước đương thời hay không? Câu trả lời phần nhiều là có. Tác giả Vũ Ngự Chiêu cũng nhắc tới sự cản trở của Việt Minh khi ông nói về việc họ cung cấp tin tình báo cho các oanh tạc cơ Mỹ vào lúc lực lượng này gia tăng hoạt động nhắm vào các đường giao thông khiến cho chính phủ Trần Trọng Kim phải dùng xe đạp để chuyển tin tức. Sử gia này cũng nhắc tới sự kiện Bộ Trưởng Xã Hội Vũ Ngọc Anh bị máy bay Mỹ bắn chết ngày 23 tháng 7 và việc Việt Minh xúi giục nông dân phá các kho thóc ở các địa phương. (27) Sự thực thì hành động xúi bẩy dân chúng phá các kho thóc ở các địa phương này nằm trong chủ trương của Việt Minh. Bằng chứng là trong Lời Kêu Gọi của Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Chống Nạn Cứu Ðói với nguyên văn “...ai là người đương đói khổ, phải rủ nhau kéo đến phủ huyện, tỉnh trưởng, đốc lý đòi phát gạo; chẹn các xe lương và phá những kho thóc của giặc Nhật mà ăn...” hay “Ðói! Ðói! Phải giữ lấy thóc gạo. Phải phá những kho thóc gạo của giặc” hay “Ðói! Ðói! Phải đánh đuổi Nhật Pháp mới khỏi đói.” (28) Hiện tượng phá các kho thóc gạo từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1945 do Việt Minh xúi bẩy và được Mặt Trận ghi nhận như những thành tích lớn lao của họ đã xảy ra ở rất nhiều nơi và được đăng trên các báo Cứu Quốc và Cờ Giải Phóng. Một vài trường hợp điển hình người ta có thể kể là ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Ðề Thám (tức Bắc Giang) ngày 13 tháng 3, phủ Thuận Thành, tỉnh Ngô Gia Tự (tức Bắc Ninh) ngày 15 tháng 3, tỉnh Tán Thuật (tức Hưng Yên) liên tiếp các ngày 9, 10, 12, 14 tháng 5 và 8 tháng 6, tỉnh Vĩnh Phúc ngày 16 tháng 5, tỉnh Nguyễn Thái Học (tức Vĩnh Yên) ngày 13 tháng 6... (29) Ðiều không kém đáng chú ý là qua những hình ảnh trong các phim tuyên truyền sau này được phổ biến, những người cướp phá các kho thóc gạo có thân hình mập mạp, khỏe mạnh thay vì ốm đói như đương thời được chụp hay tả lại.
Hành động thúc đẩy dân chúng hay tự mình phá kho thóc, kèm theo với sự xúi bẩy dân chúng không nộp thuế, đòi phát gạo... này đã được Việt Minh “kết hợp với phong trào đấu tranh vũ trang trong toàn quốc.” Thay vì gây khó khăn cho người Nhật hay người Pháp, họ đã gây ra rất nhiều khó khăn và nguy hiểm cho các nhà cầm quyền địa phương đương thời, đặc biệt là các tổng lý và các tri phủ, tri huyện là những người trực tiếp lo việc coi giữ các kho thóc gạo trong địa phương của họ, từ đó cho chính phủ Trần trọng Kim. Lý do là vì các kho thóc gạo ở các địa phương không phải là chỉ là của người Nhật mà còn là kho dự trữ để điều hòa giá cả trên thị trường trong tổ chức chính quyền của các vua nhà Nguyễn. Nhiều người đã bị bao vây, đánh đập hay bị giết vì đằng sau những người dân thuần túy là những đội danh dự, những cán bộ và những du kích võ trang Việt Minh. Mặt khác, khi xúi người dân đi cướp các kho thóc này, Việt Minh đã biến những người dân thật thà, vô tội này thành những kẻ phạm tội và bị truy tố. Không còn cách nào để trốn tránh pháp luật, những con người khốn khổ và ngây thơ này đã phải bỏ lên chiến khu cùng với những gì họ cướp được. Trường hợp của “chú Thấu” trong hồi ký của nhà văn Vũ Thụy Hoàng là một trường hợp điển hình. (30)
Cuối cùng thì bằng cách cướp phá các kho thóc gạo, ngoài mục tiêu tâm lý, Việt Minh còn vừa được gạo, vừa được người. Cũng cần phải để ý là các tỉnh có các kho thóc bị cướp kể trên không phải là những tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ như Nam Ðịnh, Thái Bình, Hà Ðông..., nơi nạn đói hoành hành mà là các tỉnh ở miền Trung du không xa các cứ địa của Việt Minh là mấy. Người dân ở các tỉnh đồng bằng này, vì bị đói nhiều ngày, lê không nổi, nằm chết dọc đường khi kéo nhau lên các tỉnh hay phủ huyện lỵ ở miền xuôi chưa nổi, sức đâu mà kéo lên các tỉnh ở tít trên các miền Trung du này để cướp phá các kho thóc như được kể. Họ cũng không thể lên đó để lãnh thóc hay gạo hay cơm, cháo từ tay các cán bộ. Việt Minh cũng khó có thể đem thóc hay gạo xuống các tỉnh miền xuôi để phát cho họ. Trường Chinh sau này khi viết về hiện tượng cướp các kho thóc gạo cũng đã đưa ra những con số và hình ảnh mà người đọc không thể không nghĩ là ông đã phóng đại: “Hàng nghìn kho thóc của Nhật ở Bắc-bộ và Bắc Trung-bộ bị quần chúng chiếm chia cho dân nghèo. Nạn đói được giải quyết bằng phương pháp cách mạng. Nông dân Bắc-giang, Thái-nguyên, Bắc-cạn, v.v... nổi dậy chiếm đồn điền của Pháp, Nhật và tiến hành chia đất.” (31) Câu hỏi được đặt ra là những thóc gạo cướp được đã được chở đi đâu nếu không phải là lên chiến khu như trường hợp xảy ra ở Quảng Ngãi cho thóc gạo chở từ Nam ra Bắc để cứu đói hồi còn chiến tranh và luôn cả sau này, sau biến cố 19 tháng 8.
Cuối cùng cướp phá các kho thóc gạo cũng là một cái cớ được Việt Minh triệt để nhắm vào để lên án sự bất lực của chính phủ Trần Trọng Kim nhằm sách động quần chúng nông thôn nổi lên cướp chính quyền khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt và cơ hội đến với họ. Sự thực thì nạn đói đã không kéo dài. Ngay từ tháng 5 nhờ vụ lúa chiêm được mùa và với nhu cầu lương thực không còn nhiều như trước do con số người chết quá cao, nạn đói giảm dần để sang đến tháng 6 thì gần như không còn nữa. (32) Tất cả đã xảy ra trước khi Việt Minh cướp chính quyền hay nói cách khác, Việt Minh không những không đóng góp được gì tính cực vào nỗ lực cứu đói trong thời gian này mà còn cản trở những hoạt động của chính phủ Trần Trọng Kim cũng như của các nhà cai trị địa phương thời đó.
Thay cho lời kết
Ngày Tết là ngày gia đình sum họp. Sum họp không phải chỉ trong gia đình nhỏ gồm có vợ chồng con cái mà là sum họp cả đại gia đình nội ngoại và luôn cả tổ tiên, cả người còn sống lẫn người đã chết. Bữa cơm cúng chiều ba mươi Tết là để mời các cụ về và ngày mùng bốn hóa vàng là để tiễn các cụ đi. Cho tới nay, vì thiếu những thống kê chính xác, ta không biết chính xác con số các nạn nhân của Trận Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945 là bao nhiêu. Một triệu, hai triệu, hơn nữa hay ít hơn. Tất cả đều có thể. Cũng vậy, với các con số nạn nhân của những biến cố bi thảm sau đó như cuộc thanh toán các đảng phái quốc gia sau ngày Việt Minh cướp chính quyền 19 tháng 8, cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, hai cuộc chiến tranh “Chống Pháp,” “Chống Mỹ,” Phong Trào Vượt Biên, Vượt Biển sau năm 1975... Ba triệu, bốn triệu, năm triệu hay hơn nữa. Tất cả cũng đều có thể. Nhưng có một điều đúng nếu không nói là rất đúng là không một gia đình Việt Nam nào, nhất là ở Miền Bắc, là không mất mát. Ðau thương tràn ngập mọi nhà, chết chóc đầy ngập các hang cùng ngõ hẻm, từ rừng sâu, núi thẳm đến biển cả, đại dương.
Câu hỏi được đặt ra là hồn oan của những nạn nhân kể trên, khởi đầu là hai triệu nạn nhân, nói theo Hồ Chí Minh, của Nạn Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945, sau 70 năm đã được giải thoát hay chưa? Ðã có ai hàng năm lập đàn tràng để giải oan cho họ chưa? Nếu chưa, xin quý vị hãy vui lòng dành một phút sau khi đọc bài này để suy ngẫm và tưởng nhớ tới họ coi như một cách giải oan cho họ cũng như giải oan cho hàng triệu người khác đã bị lợi dụng và bị hy sinh sau đó. Cầu mong lịch sử sẽ không còn tái diễn dù dưới hình thức nào đi chăng nữa!
Ðể kết thúc bài này, người viết xin gửi tới quý độc giả những câu đầu và câu cuối của bài Con Ðò Ðưa Xác của hai tác giả Ngọc Bích và Nguyễn Văn Ðức sau đây mà quý độc giả có thể mở nghe dễ dàng trên các trang mạng, để thấy những cảm giác thê thảm đến độ ghê rợn của người đương thời:
Gió thổi thì thầm, mưa bay lâm râm.
Ai chở con đò bên dòng sông vắng?
Ai khóc tỉ tê trên dòng trường giang?
Ðò sang ngang, dưới ánh trăng vàng.
Gió thu hiu hắt nức lên từng cơn.
Nặng nề một chiếc thuyền con,
Âm thầm chở mấy vong hồn qua sông. 
Trăng lên, mây tan!
Sao trăng đẹp thế này!
Mà trên sông vắng,
Con đò cay đắng đưa xác người về đâu?
Ô hô! Ô hô! Con ới mười mấy tuổi đầu,
Vì chưng đói rét ngậm sầu thác oan!
.....
Trôi về đâu? Con đò xác!
Lấp vào đâu? Nỗi niềm thương!
Mang mang trong mây tan!
Phiêu linh có một bóng ông già
Tay chèo tay lái,
Lòng buồn tê tái,
Lòng buồn tê tái đem chôn đàn con! 
Trôi về đâu? Con đò xác!
Lấp về đâu? Nỗi niềm thương!
Chuyện Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản, lợi dụng nạn đói tháng 3 năm Ất Dậu, xúi giục các nông dân vô tội nổi loạn cướp phá các kho thóc gạo rồi sau đó theo đảng này cướp chính quyền với những hứa hẹn chia ruộng đất và không còn phải đóng thuế nữa là một điều dễ hiểu. Ðiều đáng tiếc là người chết không còn sống lại để thấy hiện trạng của đất nước Việt Nam 70 năm sau đó như thế nào.
Phạm Cao Dương
(Tuần lễ tiễn Ông Táo lên chầu Trời, Tết Ất Mùi 2015)
Chú thích:
(1) Henry, Yves and de Visme, Documents de démographie et riziculture en Indochine. Hanoi: Publication du Bulletin Économique de l1Indochine, 1928, tr. 332 và kế tiếp. Xem thêm cùng tác giả, Économie agricole de l1In dochine. Hanoi: IDEO, 1932; Nguyễn Thế Anh, Into the Maelstrom: Vietnam During the Fateful 1940s. Westminster, CA: Viện Việt Học, 2005, tr. 45, và Phạm Cao Dương, Vietnamese Peasants under French Domination, 1961-1945, Monograph Series No. 24. Lanham, MD: University Press of America, 1985, 125 và Thực Trạng Của Giới Nông Dân Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc. Saigon: Nhà Sách Khai Trí, 1967, tr.185-186. 
(2) Lãng Nhân, “Lời Người Bán Cám,” trong Ðông Dương Tạp Chí, No. 27, Samedi 13 Novembre 1937, Mục “Chuyện Vô Lý,” tr. 10; Phạm Cao Dương, Thực Trạng của Giới Nông Dân..., tr. 186-187. 
(3) Nguyễn Thế Anh, như trên, tr. 45.
(4) Như trên, tr. 46.
(5) Ðoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên Saigon: Nam Chi Tùng Thư? Ðại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 28 
(6) - như trên, tr. 29.
(7) Ðoàn Thêm,1945-1954, Việc Từng Ngày, Hai mươi Năm Qua. Saigon,?, Los Alamitos, California: Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 3.
(8) Văn Cao, “Tôi Viết Tiến Quân Ca,” trong Một Chặng Ðường Văn Hóa, Tập Hồi Ức Và Tư Liệu Về Ðề Cương Văn Hóa Của Ðảng Và Ðời Sống Tư Tưởng Văn Nghệ, 1943-1948. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tác Phẩm Mới, 1985, tr. 109.
(9) Văn Cao, “Tôi Viết Tiến Quân Ca,” tr.110-111.
(10) Nguyễn Huy Tưởng. “Nhật Ký Nguyễn Huy Tưởng,” trong Một Chặng Ðường Văn Hóa..., như trên, tr. 125.
(11) Như trên, tr. 129.
(12) Vũ đình Hòe, “Những Ngày Tháng 8 ở Hà Nội,” trong Nguyễn Văn Khoan (Chủ Biên). Tổng Khởi Nghĩa Tháng 8-1945 Tại Hà Nội, Việt Minh Hoàng Diệu. Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 2001, tr. 255.
(13) Marr, David G, Vienam 1945..., đã dẫn, tr. 104; Tonnesson, Stein. The Vietnamese Revolution of 1945..., đã dẫn, tr. 293.
(14) Devillers, Philippe, Histoire du Vietnam de 1940 à 1952. Paris: Editions du Seuil, 1952, tr. 131
(15) Buttinger, Joseph, Vietnam: A Dragon Embattled. Vol. 1, New York: Praeger, 1967, tr. 240.
(16) Logevall, Fredrik, Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America's Vietnam. New York: Random House, 2012, tr 81.
(17) Woodside, Alexander B. Community and Revolution in Modern Vietnam. Boston: Houghton Mifflin, 1976, tr. 159.
(18) Marr, đã dẫn, tr. 104.
(19) Nguyễn Văn Khoan, Tổng Khởi Nghĩa Tháng 6-1945..., đã dẫn, tr. 37.
(20) Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, 1939-1975 (Tập A: 1939-1946, tr. 221.
(21) Ðoàn Thêm, 1945-1954, Việc Từng Ngày... đã dẫn, tr. 6 - 7.
(22) Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, đã dẫn, tr. 277. Marr, Vietnam 1945..., đã dẫn, tr. 102. Nguyễn Thế Anh, Into the Maelstrom, đã dẫn, tr. 49.
(23) Marr, Vietnam 1945..., đã dẫn, tr. 102-103.
(24) Trần Hữu Ðính và Lê Trung Dũng, Cách Mạng Tháng Tám 1945, Những Sự Kiện Lịch Sử. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia, Viện Sử Học, 2000, tr. 206.
(25) Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, Hồi Ký Cách Mạng. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, 1995, tr. 125. 
(26) - như trên, tr. 123.
(27) Vũ Ngự Chiêu, “The Other Side of the Vietnamese Revolution,” đã dẫn, tr. 308.
(28) Trần Huy Liệu và Văn Tạo, Cao Trào Ðấu Tranh Tiền Khởi Nghĩa,” Tài Liệu Tham Khảo Lịch Sử Cách Mạng Cận Ðại Việt Nam, Tập XI. Hà Nội:Nhà Xuất Bản Văn Sử Ðịa, 1957, trang 97 và kế tiếp 
(29) - như trên, tr. 103 và kế tiếp.
(30) Vũ Thụy Hoàng, “Ðêm Hà Nội Nổ Súng, Chiến Tranh Việt Pháp bùng nổ 50 năm trước,” Hồi Ký, trong Thế Kỷ 21, Năm Thứ Tám, số 92, December 1996, tr. 35.
(31) Trường Chinh, Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ Nhân Dân Việt-Nam, Tác Phẩm Chọn Lọc, Tập I. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1975, tr. 346. 
(32) Vũ Ngự Chiêu, “The Other Side of the Vietnamese Revolution,” đã dẫn, tr. 308.

Đài Phật giáo Việt Nam phỏng vấn Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ về nội dung cuộc gặp gỡ và trao đổi với Bà Rena Bitter, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ 

Sau khi được tin bà Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ đến Thanh Minh Thiền Viện hôm thứ ba 17-3-2015 vấn an Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ và trao đổi về hiện tình Phật giáo và Việt Nam. Đài Á Châu Tự Do đã có cuộc phỏng vấn Đức Tăng Thống và phát sóng về Việt Nam trong chương trình hôm thứ năm 19-3. Theo thông lệ, Đài hạn định thời lượng tất cả các cuộc phỏng vấn là 7, 8 phút. Do nhu cầu Phật sự, Đài Phật giáo Việt Nam cần hỏi thêm một số chi tiết, nên có cuộc phỏng vấn Đức Tăng Thống dài 12 phút dưới đây, và phát về Việt Nam trong chương trình hôm thứ sáu 27-3. Xin mời bạn đọc theo dõi cuộc phỏng vấn dưới đây, hoặc có thể vào nghe tại : http://pttpgqt.net/2015/03/31/dpgvn-phong-van-dtt-thich-quang-do-ve-noi-dung-cuoc-gap-go-rena-ritter(download: http://kiwi6.com/file/hry8cdzk8h ) 

Ỷ Lan : Ngưỡng bạch Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, theo tin của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, thì Bà Rena Bitter, Tổng lãnh sự Hoa Kỳ đã có cuộc viếng thăm Đức Tăng Thống. Xin Đức Tăng Thống hoan hỉ cho thính giả biết rõ việc này ? 

Đức Tăng Thống : Đúng như vậy. Bà Tổng lãnh sự Hoa Kỳ Rena Bitter cùng với phái đoàn 3 người đến Thanh Minh Thiền Viện thăm tôi vào lúc 2 giờ chiều ngày thứ ba vừa qua. Cuộc thăm viếng và trao đổi kéo dài trong vòng một giờ rưởi đồng hồ. Theo bà Tổng Lãnh sự thì năm nay kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Mỹ, nên mới có chuyến viếng thăm để biết quan điểm tôi đối với hiện tình Việt Nam trong vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo.

 Ỷ Lan : Đức Tăng Thống đánh giá cuộc gặp gỡ như thế nào, và sự quan tâm của Phái đoàn Hoa Kỳ ra sao ?

 ĐTT : Cuộc gặp gỡ rất thân ái, có nhiều thông cảm. Bà Tổng Lãnh sự xác nhận với tôi chính sách của Hoa Kỳ đặt nặng trên vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo, là những giá trị bất biến. Cho nên trong tất cả mọi mối bang giao, nhân quyền và tự do tôn giáo luôn là khởi điểm cho các cuộc hội đàm. Bà cho biết, không có cuộc gặp gỡ nào với chính quyền Việt Nam mà Hoa Kỳ không đề cập đến nhân quyền và tự do tôn giáo. Đặc biệt, trong năm kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Mỹ, sẽ có nhiều cuộc gặp gỡ, chúng tôi cũng sẽ bảo vệ nguyên tắc nhân quyền và tự do tôn giáo là sự quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ trong mọi cuộc thương thảo.

 Ỷ Lan : Bà đã hỏi vấn đề gì và Đức Tăng Thống trình bày như thế nào ?
 

ĐTT : Sau cuộc gặp gỡ, tôi đã trao tặng bà Rena Bitter một trang viết nhận xét của tôi, và 2 tài liệu (bằng tiếng Anh) về những khó khăn, khủng bố, đàn áp mà nhà cầm quyền Cộng sản dành cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất suốt 40 năm qua, mà tôi chỉ thị cho Tổng vụ Truyền thông Viện Hoá Đạo và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chuẩn bị và trình bày các chứng liệu để bà Tổng Lãnh sự có đầy đủ hồ sơ.
 

Trong cuộc trao đổi tôi giải thích để bà Tổng Lãnh sự hiểu rõ tình hình Phật giáo Việt Nam.Dù rằng nhìn chung, xã hội Việt Nam có những bước đi lên, nhưng sự cách biệt giầu nghèo quá lớn, các đảng viên Cộng sản bây giờ không còn là vô sản, mà là những nhà tư bản đỏ, tham ô và hối mại quyền thế. Họ cậy thế Đảng Cộng sản để kinh doanh, làm ăn bất chính, trở thành các đại gia. Ngược lại, đại đa số đồng bào lâm tình trạng nghèo khó, bị cướp đất, cướp nhà, rất khốn khổ, mà người ta thấy qua phong trào Dân Oan… Chiêu bài kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là sự bám víu để nối dài thể chế độc tài toàn trị, nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho Đảng. Chính nhóm đặc quyền đặc lợi này đang bán nước, bán tài nguyên của dân tộc cho ngoại bang. 

Kể từ năm 1975, Cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, chủ trương Đảng muốn tất cả mọi tôn giáo trở thành công cụ của Đảng, nên áp dụng chính sách chia để trị, ai theo tôn giáo do Đảng thành lập thì được sống, ai không theo thì bị khủng bố. Thiên chúa giáo nhờ có Tòa Thánh Vatican can thiệp, còn Giáo Hội Thống Nhất chúng tôi cũng như các tôn giáo khác như Cao đài, Hòa hảo, Tin lành không theo Đảng đều bị xem là phản động. Đảng tổ chức ra “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” năm 1981 để làm thừa sai cho Đảng. Thực tế, danh xưng “Giáo hội” Đảng đặt ra để đánh lừa Quốc Tế, thực chất chỉ là một Hiệp hội nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, do Ban Tôn Giáo Chính Phủ lãnh đạo. 

Cũng kể từ đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất của chúng tôi, một Giáo Hội dân lập, lịch sử và duy nhất tại Việt Nam bị tước đoạt quyền pháp lý, bị đàn áp, khủng bố suốt 40 năm nay. Mục tiêu đàn áp ngày càng tinh vi, nhằm đẩy chúng tôi đi vào chỗ tự diệt. Sự đàn áp cụ thể trải qua 3 giai đoạn : Giai đoạn một, đánh vào thượng tầng Giáo Hội bằng cách giết chết, giam tù, lưu đày các cấp lãnh đạo để Giáo Hội lâm tình trạng như rắn mất đầu. Nhưng họ đã thất bại, nên tiến qua giai đoạn hai, là dùng Sư đánh Sư, dùng Phật tử đánh Phật tử, mà sự ra đời của “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” là minh chứng cụ thể. Bây giờ, Cộng sản sử dụng cái đói cái nghèo làm cho dân sợ mà phải nghe theo : ai theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất thì chồng không có việc làm, vợ không được buôn bán, con không được đến trường học hành. Tuy nhà cầm quyền thực hiện ngấm ngầm chính sách này, nhưng hậu quả thì rất khốc liệt cho Giáo hội chúng tôi. Vì sinh kế và miếng cơm manh áo mà người Phật tử buộc phải rời khỏi Giáo hội. Cho nên duy trì được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cho đến ngày hôm nay là vô cùng vất vả.

 Hơn nữa, suốt Hai Nghìn năm lịch sử, Phật giáo luôn đồng hành cùng Dân Tộc, nên Giáo hội chúng tôi luôn đứng chung với toàn dân trong công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên quốc gia trước nạn bành trướng xâm lăng của Trung Cộng. Do đó, mà Giáo hội chúng tôi bị nhà cầm quyền lên án là phản động, là chống Đảng. Ai hậu thuẫn Giáo hội đều bị khủng bố đàn áp. Trong hoàn cảnh bị thúc ép như thế, chúng tôi phải cho thành lập Văn phòng II Viện Hoá Đạo đặt trụ sở ở Hoa Kỳ, phòng khi Gíao hội trong nước bị đàn áp tê liệt, thì Văn Phòng II Viện Hoá Đạo có nhiệm vụ duy trì Giáo hội tại hải ngoại để chờ ngày đất nước quang phục. 

Ỷ Lan : Trước bao khó khăn như thế, lập trường của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ngày nay như thế nào, bạch ĐứcTăng Thống ?


 ĐTT : Tôi đã khẳng định với bà Tổng Lãnh sự, là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất là Giáo Hội có tiếng nói đối lập duy nhất tại Việt Nam để đòi hỏi nhân quyền, tự do dân chủ cho 90 triệu người dân Việt Nam và chúng tôi sẽ tranh đấu đến cùng dù phải trả với bất cứ giá nào. Lập trường của Giáo hội, là không chấp nhận chế độ độc tài toàn trị của Cộng sản. Tôi cũng xác định dân tộc Việt Nam cần được hưởng một thể chế dân chủ đa nguyên.


 Tôi cũng nói rõ với bà Rena Bitter vai trò của Hoa Kỳ quan trọng nhất trong việc chuyển hoá chế độ Cộng sản độc tài thành một chính thể dân chủ tự do. Vì vậy tôi yêu cầu bà Tổng Lãnh Sự quan tâm cho sự kiện, nếu nhà cầm quyền Hà Nội muốn được hưởng sự ưu đãi của Hoa Kỳ, thì họ phải chịu đánh đổi bằng sự tôn trọng nhân quyền và tự do dân chủ. Dân tộc chúng tôi muốn được hưởng nền tự do dân chủ như các nước văn minh trên thế giới. Đặc biệt, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cần có tự do dân chủ thì mới có thể phát triển, hành đạo và tồn tại để đóng góp tái thiết quốc gia. Không có tự do dân chủ đa nguyên, thì cái Giáo Hội Phật giáo nhà nước kia sẽ thực hiện âm mưu Đảng làm biến tướng Phật Giáo. Khi những nhà sư không còn giữ giới luật Phật chế, mà lại còn được học tập chủ nghĩa Mác – Lênin thì giáo lý từ bi, khoan dung và cứu khổ chúng sinh còn lại gì ?!

 Tôi cũng lưu ý bà Tổng Lãnh sự về hiện trạng các thế hệ thanh thiếu nhi Việt nam đang bị chính sách giáo dục nhồi sọ theo kiểu “xã hội chủ nghĩa” chủ trương hận thù, lưu manh, vô cảm, sa đọa. Nếu không sớm thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa Việt Nam, thì tương lại Việt Nam sẽ rơi vào vực thẳm, khó có thể phục hồi nhân phẩm. Trong trang nhận xét viết gửi bà Tổng Lãnh sự, tôi đặc biệt cám ơn Hoa Kỳ thông qua Ngoại trưởng Madeleine Allbright, vị Ngoại trưởng đầu tiên đến Việt Nam. Nhờ lời Ngoại trưởng kêu gọi trả tự do cho tôi tại Hà Nội mà tôi mới được ân xá năm 1998. Ngoại trưởng Madeleine Allbright là người am hiểu tình hình Việt Nam khi bà phê phán Hoa Kỳ đã sai lầm tại Việt Nam do xem nhẹ vai trò tôn giáo. Bà cho rằng : Ngay lúc khởi đầu mục tiêu chống Cộng đã bị suy yếu vì chính quyền Saigon đàn áp Phật giáo, mà Phật giáo là cơ sở không cộng sản lớn nhất tại Việt Nam, vì vậy chúng ta không thu phục được trái tim và lòng người dân Việt.


 Ỷ Lan : Bà Tổng Lãnh Sự đã phản ứng ra sao về sự trình bày của Đức Tăng Thống ? Và bà có hỏi hay nói gì thêm ?


 ĐTT : Bà nói rất mừng được gặp tôi và mong trong tương lai còn dịp gặp lại để nghe thêm ý kiến giúp cho việc nghiên cứu giải quyết vấn nạn Việt Nam. Bà cũng hỏi tôi có thông điệp gì hay lời nhắn gì có thể áp dụng trong các cuộc tiếp xúc với Việt Nam.


 Tôi đáp bằng một chủ trương đã từng nói với Tổng Bí thư Đỗ Mười, là Việt Nam nên xây dựng một thể chế dân chủ đa nguyên, đơn giản chỉ cần ba đảng : một đảng trung lập, một đảng khuynh tả và một đảng khuynh hữu. Như thế Cộng sản vẫn tồn tại trong cộng đồng dân tộc, họ có mất đâu. Nhưng họ không dám làm vì họ sợ mất quyền độc tài toàn trị, mà tôi nói hơi thô bạo một chút, là họ sợ buông cái quyền độc tài toàn trị ra là họ mất đầu liền, vì toàn dân đều ngấm ngầm biết rõ tội ác của họ 54 năm qua. 


Thursday, March 26, 2015

Wednesday, March 25, 2015

Tù nhân lương tâm trại tù Xuyên Mộc tuyệt thựcPhần âm thanh Tải xuống âm thanhnguyenkha-phuonguyen-620.jpgSinh viên Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên tại phiên xử sáng ngày 16/05/2013 ở Tòa án Nhân dân tỉnh Long An.AFP
Các tù nhân lương tâm Đinh Nguyên Kha cùng Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng ở trại tù Xuyên Mộc bắt đầu đợt tuyệt thực phản đối việc người tù chung với họ là Trần Vũ Anh Bình bị còng tay đưa đi, không có tin tức gì kể từ hôm 19/3/2015.
Vào ngày 24/3/2015, bà Nguyễn Thị Kim Liên, mẹ tù nhân lương tâm Đinh Nguyên Kha cho đài Á Châu Tự Do biết lần đi thăm nuôi đầu tiên sau dịp Tết Nguyên Đán Ất Mùi bị các cán bộ trại giam Xuyên Mộc đặt hàng rào chắn ngang trên đường đến nhà tù cùng với bốt kiểm tra giấy tờ nhân thân.
Trong lần thăm gặp mới nhất, bà Liên và Đinh Nhật Uy được Đinh Nguyên Kha cho biết kết quả đợt tuyệt thực 10 ngày của 4 tù nhân lương tâm hồi tháng 1 phản đối sự cai quản hà khắc như nhốt biệt giam và không cho nhận sách, báo, từ điển tiếng Anh gửi vào trong tù. Bà Liên nói lại những gì nghe được từ Đinh Nguyên Kha:
“Cai tù nói: ‘Không giải quyết kiến nghị nào hết. Kiến nghị sai pháp luật’. Thành ra Kha làm đơn khiếu nại thưa trại giam tới ra Tổng cục 8 và Viện Kiểm sát của Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Viện Kiểm sát Bà Rịa-Vũng Tàu có vô trại giam làm việc, mời Kha làm việc chung với cai tù. Nhưng anh em tù nhân nói với Kha phải có 1 tù nhân lên làm chứng trong buổi  làm việc nữa thì mới đồng ý và Viện Kiểm sát không chịu”.
Đinh Nguyên Kha còn cho biết anh cùng với 3 tù nhân lương tâm khác là Trần Vũ Anh Bình, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng bắt đầu đợt tuyệt thực mới từ hôm 19/3 này.
8 tù nhân lương tâm vẫn bị biệt giam trong phạm vi 12 mét vuông và  4 tù nhân lương tâm vừa nêu quyết định tuyệt thực để phản đối các kiến nghị trước đây của họ không được giải quyết.
Vào ngày 19/3, cán bộ trại giam vào lục xét phòng, tù nhân lương tâm Trần Vũ Anh Bình bị cai tù giật đứt chuổi tràng hạt của người Công giáo.
Anh Trần Vũ Anh Bình lên tiếng chống đối gay gắt việc cán bộ trại giam không ghi trong biên bản về chiếc chuổi tràng hạt bị giật đứt của anh nên bị còng tay dẫn đi cho đến ngày 22/3 vẫn chưa có tin tức gì.
Do Đinh Nguyên Kha báo với gia đình thông tin này mà cán bộ trại giam cắt ngắn cuộc thăm gặp còn 40 phút thay vì 1 giờ đồng hồ. Cán bộ trại giam, Đại úy Phạm Văn Huyên nhắc nhở 2 lần, bà Liên kể:
“Họ nói là ‘Một lần nữa tôi cảnh cáo anh nếu anh nói chuyện vấn đề những người khác thì tôi sẽ cắt cuộc thăm gặp này và giải anh vô trong liền’”.
Cán bộ trại giam cũng nói với bà Liên rằng trại giam không bỏ đói tù nhân. Đinh Nguyên Kha lập tức lên tiếng phản bác lại. Bà Liên kể tiếp lời Đinh Nguyên Kha nói với cán bộ trại giam ngay trong buổi thăm gặp:

Phản đối chế độ giam cầm hà khắc

 Trong thể trạng ốm yếu, gầy lại thêm bị kiệt sức lâu ngày thì với mức độ của Diệu chỉ cần tuyệt thực thêm 3 đến 5 ngày thì sức khỏe có thể rơi vào tình trạng có thể gọi là nguy hiểm.
Cựu tù nhân Trương Minh Tam

“Những vấn đề gì tôi yêu cầu làm đơn kiến nghị mà các anh không giải quyết, không trả lời đơn thư luôn. Đã vậy rồi hôm 19/3 các anh còng tay Trần Vũ Anh Bình đưa đi mất tích luôn mà không cho đem theo một món đồ cá nhân nào hết nên chúng tôi tuyệt thực luôn từ ngày đó”.
Anh Đặng Xuân Diệu trước tòa.
Anh Đặng Xuân Diệu trước tòa.
Đinh Nguyên Kha còn cho biết thêm thông tin của bản thân là có 3 nhân viên An ninh Điều tra thuộc Phòng PA92 từ Long An đến trại giam Xuyên Mộc tra hỏi bức hình anh mặc áo tù, tay cầm tờ giấy ghi “Phản đối biệt giam. Tôi Đinh Nguyên Kha tuyên bố tuyệt thực” đăng tải trên Facebook của mẹ anh là do ai chụp; và thông tin liên liên quan đến sức khỏe của 2 bạn tù cùng tuyệt thực là Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng rất yếu.
Cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Tam, người từng bị giam chung với Đặng Xuân Diệu ở trại 5, Thanh Hóa, thường xuyên đi thăm anh Diệu ở trại Xuyên Mộc chia sẻ với đài RFA về tình hình sức khỏe của anh Diệu:
“Bằng cảm nhận của mình, mình nghĩ Diệu khá yếu. Bởi vì sau cuộc tra tấn hành hạ dài của trại 5 và các đợt tuyệt thực của Diệu dài nhất mà mình được chứng kiến lên tới 7 tháng thì sức khỏe một người sẽ bị suy kiệt rất ghê gớm. Xuống đến trại Xuyên Mộc tình trạng tuyệt thực dài ngày như thế không còn nữa, chỉ kéo dài 4-5 ngày, thậm chí kéo dài đến 10 ngày thì họ phải đáp ứng các yêu cầu chính đáng của anh em. Bằng cảm nhận của Tam từng biết về sức khỏe của Diệu thì mình nghĩ là trong thể trạng ốm yếu, gầy lại thêm bị kiệt sức lâu ngày thì với mức độ của Diệu chỉ cần tuyệt thực thêm 3 đến 5 ngày thì sức khỏe có thể rơi vào tình trạng có thể gọi là nguy hiểm.
Buổi thăm gặp ngắn ngủi của gia đình tù nhân lương tâm Đinh Nguyên Kha kết thúc với lời khẳng định của anh Kha rằng 3 người họ sẽ tiếp tục tuyệt thực cho đến khi biết được tin tức của người bạn tù Trần Vũ Anh Bình ra sao.

Cảnh báo tình trạng sức khỏe Đặng Xuân Diệu

Tuesday, March 24, 2015

SÀI GÒN 1970

https://www.youtube.com/watch?v=PdXxda5LCcY
Phim xưa Sài Gòn sống động thời 70 . Khoảng năm 70-71, thì SG thịnh hành máy quay phim 8 ly của...
YOUTUBE.COM

Sunday, March 22, 2015

Đọc chuyện Tàu, ngẫm việc Ta:


Ma Jian : Quyền Được Sanh, Quyền Được Sống.


Trước đèn xem truyện Tây MinhGẫm cười hai chữ nhơn tình éo le
(Nguyễn Đình Chiểu - Lục Vân Tiên)


Phan Văn Song


 Tuần qua, được bạn bè giới thiệu, mua đọc cuốn sách La Route Sombre – Con đường tăm tối của tác giả người Hoa Ma Jian hiện tỵ nạn tại London, Anh Quốc.
Sách dẫn chứng những bạo hành của chế độ do Trung Cộng kiềm soát một cách độc tài và và vô nhơn đạo xã hôi người Hoa. Tác giả viết rõ, kể rõ không nhơn nhượng, không dùng mỹ từ, họa rõ, tả chân bức tranh một Trung Hoa hoàn toàn bị bóp nghẹt, sống dưới một chế độ tàn bạo, vô đạo đức.



Xin giới thiệu đến các độc giả, để cùng nhau nghĩ đến viễn tượng một Việt Nam ngày mai có nguy cơ Hán Hóa ! Hãy nhận  rõ bài học : Tàu không thương dân Tàu làm sao thương được dân Việt Nam !


Ma Jian, La Route Sombre, 2012, Pháp ngữ do nhà sách Flammarion, Paris 2014 với lời giới thiệu của GaoXingJian, giải Nobel Văn Chương năm 2000 :                   « Một trong những tiếng nói can trường nhứt của văn chương Trung hoa »


 Ma Jian : La Route Sombre – Con Đường Tăm Tối.


Đọc « Con Đường Tăm Tối » của Ma Jian là cả một công trình chông gai. Mỗi giòng, mỗi trang là mỗi cảm xúc mạnh. Cả một cố gắng. Vẫn phải tiếp tục đọc. Bao lần bỏ sách xuống. Bao lần dở sách lên đọc tiếp. Không phải vì thích thú, nhưng vì bổn phận. Vì tất cả là sự thật, như những cơn bão thối mạnh, những cơn bão « sự thật » đập vào mặt, phủ phàng, cay đắng, hung bạo. Tuy viết một cuốn tiểu thuyết, nhưng tác giả là một nhơn chứng, sống thực và nay kể chuyện, rất tả chân, cho người đọc, để chúng ta - chúng ta những người đang sống trong một xã hội hiền hòa, trọng người, trọng luật, trọng nhơn, trọng nghĩa, nhơn ái, nhơn hòa – cho chúng ta thấy rõ, hiểu rõ  những gì đang xảy ra ở một quốc gia xa xăm, xa xăm đối  cả với cá nhơn chúng tôi và gia đình chúng tôi vi chúng tôi chưa bao giờ đi du lịch Trung Hoa, hay Trung Quốc nói theo từ Việt ngữ Vìệt Cộng.



Bổn phận phải đọc ? Phải, phải đọc, và phải giới thiệu với quý bạn đọc Việt Nam. Để nhận rõ tên láng giềng phương Bắc, để nhận rõ kẻ thù truyền thống, bao lần manh nhe xâm chiếm và đô hộ đất nước Việt Nam. Hãy bỏ đi những bài học truyền thống về văn hóa Trung Hoa Khổng Mạnh, về quan niệm người quân tử. Hãy quên đi những Nhơn, những Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Lý thuyết Cộng sản đã phá, đã vứt bỏ cả Tứ Thư Ngũ Kinh, Can Thường, Đạo Lý.


  Tuyên truyền Việt Cộng gọi chế độ Pháp thuộc là chế độ Thuộc địa, gọi chế độ Mỹ là chế độ Đế quốc. Thế thì nghĩ sao chế độ Hán thuộc ? Xin thưa, vừa Thuộc địa, vừa Đế quốc. Ngày nay, hiên tượng ấy đang phổ biến ở vài quốc gia ở Phi châu : Zambia, Cameroun… và ngay cả những khu vực láng giềng biên cương lãnh địa Trung Hoa.


Người viết chúng tôi đã có nhiều bài nói đến những hiện tượng ấy. Bài nầy, một lần nữa xin đóng góp vào công trình chung của tất cả bạn bè giao hữu đang cùng nhau đánh tiếng báo động viễn ảnh Tàu thuộc, Hán hóa !



Người viết cũng xin nói rõ rằng người viết không bài Hoa, chống người Hoa. Gia phả người viết cũng như một số gia phả các gia đình gốc gác Đàng Trong, vốn gốc người  Minh Hương, Ông tổ mười bốn đời chúng tôi qua tỵ nạn ở Việt Nam vào những năm 1644, khi Nhà Thanh toàn chiếm đất Tàu. Chuyện ấy được bà xã người viết Hélène Phan Van Song-Fillet viết kể trong cuốn tiểu thuyết bằng Pháp ngữ Courrier de Chine - Người Đưa Thư Từ Đất Tàu - Elytis Editions 2006.



Xin trở về với cuốn sách của Ma Jian và Trung Quốc. Xin phép quý vị dùng từ Trung Quốc theo từ ngữ do nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam áp đặt. Trung Quộc ngày nay có mặt mọi nơi, với nhiều hình ảnh, tốt xấu tùy người, tùy cảnh, tùy đối tượng ! Khi thì bạn bè, đồng minh, như với Nga Poutine ! Khi thù địch, như với Nhựt, với Phi Luật Tân ! Khi thì nửa gây hấn, nửa kẻ cả, vừa răng đe vừa vuốt ve che chở, như đối với Việt Nam ! Khi thì đối tác làm ăn, ngoại giao, giữ miếng, « miệng nam mô nhưng bụng đầy dao găm » như đối với Âu châu với Mỹ ! Và khi hoàn toàn thuộc địa, chủ nhơn ông« đá đít bợp tai kẻ dưới người bản địa, « tiểu nà má », hoàn toàn đế quốc thuộc địa, theo kiểu Tây thuộc địa « mẹt xà lù » với dân chúng bản địa các quốc gia Phi Châu !


Trung Quốc, anh chàng muôn mặt, anh chàng ngày nay khổng lồ, đang xâm chiềm các thị trường năm châu tứ hải. Hướng về Tây tràn ngập Âu Châu, hướng về Đông vượt Đại Dương qua Mỹ, xuôi Nam nhập Úc ! Trung Quốc, anh khổng lổ luôn luôn ý tứ, kiểm soát ngoại hình, tô son điểm phấn, vẽ cho mình một bộ mặt tử tế khi tiếp khách,  nụ cười cởi mở, đôi tay mở rộng, với dư luận quốc tế. Nhưng anh chàng khổng lồ ấy, cùng thời cũng kiểm soát, kềm chế chặt chẻ người dân mình với một chánh sách kiểm duyệt gắt gao, công an trị  nội trị trên toàn xứ sở. Trung Quốc, anh khổng lồ ngày nay, với ngoại hình  trổ giò cao lớn, kinh tế giàu có, ăn mặc bãnh bao, nhưng đầu óc vẫn chưa trưởng thành, nội trị độc tài, độc tài hành hạ gia đình vợ con công dân mình. Thật là, ra đường ba xạo với khách, về nhà nói láo và độc tài với dân !



Vì vậy Ma Jian phải đi tỵ nạn ở London, Anh Quốc. Cũng đừng quên, ngày nay Trung Cộng là một cường quốc đứng hàng đầu thế giới, kinh tế lên hàng số 1, mà tiếp tục có rất nhiều công dân bỏ xứ, xuất ngoại tỵ nạn. Tỵ nạn đương thời là một tự nhiên còn có cả tỵ nạn tương lai bằng cách đem bào thai du nhập đất Mỹ để sanh con tại Mỹ, để con có quốc tịch Mỹ vì quy chế quốc tịch Mỹ theo quy chế nơi sanh quán  (de solis), sanh  quán đâu quốc tịch đó !  Việt Nam Cộng sản, học trò của Trung Quốc, cùng chế độ, cùng phương pháp buộc ba triệu người dân Việt chúng ta phải đi tỵ nạn từ 40 năm nay khắp cùng thế giới.


Thật tinh mà nói, với tư tưởng và văn phong nói thật, Ma Jian khó làm vừa lòng, khó hạp với cái thói ăn nói lấp liếm, dấu diếm, giả tạo của chế độ Cộng sản ; « Khi tôi bắt đầu vào nghề viết, Ma Jian nói, tôi đã quan niệm rằng ngòi bút phải là một vũ khí chống nói láo và  độc tài. Văn hóa là trung thực, văn hóa phải làm sáng tỏ những ý kiến, quan niệm, chánh sách. Văn hóa phải phỏng vấn, chất vấn nhà nước và các cơ quan cầm quyền ».


Thoát nạn, sống sót sau  thảm sát Thiên An Môn năm 1989, Ma Jian là nhơn chứng sống và nhờ đó, đã « ngộ ra » rằng : « Chứng kiến một cách tuyệt vọng hành động xóa bỏ lịch sử và hành động che dấu sự thật bởi nhà cầm quyền (Trung Cộng) đã cho tôi « ngộ » rằng bổn phận nhà làm văn hóa là phải chối bỏ mọi láo khoét. Tử ngày tham dự phong trào sanh viên ở Thiên An Môn về, tôi buộc cho tôi một bổn phận, tôi phải nói sự thật, phải luôn luôn đấu tranh để nói sự thật ».


Chúng ta người Việt Nam hải ngoại, chúng ta cũng là những nhơn chứng sống của những ngày sau 30 tháng Tư năm 1975, chúng ta cũng phải có bổn phận  bằng mọi giá nói lên sự thật, vì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ngày nay cũng giống như quan thầy Trung Cộng của họ cũng đang xóa bỏ lịch sử Việt Nam và đang trị nước trị dân bằng một chế độ láo khoét. 



Tôn Trọng Sự Sống:



Nói lên sự thật ! Đẹp, thơ mộng hay hung hăn, thật đến lắm lúc người đọc phải buồn nôn, ghê tởm, bỏ sách xuống, đó là văn phong của Ma Jian. Trong một cuốn sách trước, Beijing Coma, Bắc Kinh Bị Hôn Mê, tác già đã ví Bắc Kinh như cơn hôn mê của người  anh của tác giả trong những ngày Thiên An Môn. Ma Jian ví Trung Hoa đang chìm đắm trong cơn hôn mê, với một bộ óc còn minh mẫn trong một thân thể bất động. Một hình ảnh thật táo bạo đối với một quốc gia đang trong một thời kỳ phát triển kinh tế vượt bực.



Với La Route Sombre-Con Đường Tăm Tối, Ma Jian, với lối viết tả chân, đi vào một thực tế đầy chất người, nhưng cũng rất hung bạo : chế độ xã hôi Tàu dưới chánh sách kiểm soát sanh đẻ cuả Nhà nước Trung Cộng. Qua câu chuyện của Meili, môt thiếu phụ trẻ, vợ của Kong Zi, giáo viên, cả hai ngụ ở một làng cùng quê hương với KongTsu -Khổng Tử.  Tác giả tả rất tỉ mỉ đời sống của một phụ nữ Trung Hoa bị kềm kẹp giữa văn hóa Khổng giáo phải sanh cho chồng một nam nhi để tiếp tục giòng họ và thờ phượng gia tộc và chánh sách một con của Nhà Nước Trung Cộng. Người phụ nữ Tàu, bắt buộc suốt đời phải sống với một chuổi dài phá thai hay diệt đường sanh đẻ. Meili và Kong Zi đã có một bé gái. Nhưng vì phải có con trai để nối dõi tông đường nên Kong Zi và Meili quyết định sanh thêm không xin phép.



Sanh con, thích con trẻ, Ma Jian biết rõ, hãy nghe Ma Jian tâm sự, khi được vợ sanh đứa con gái đầu lòng : «  Tôi được chứng kiến một sự mầu nhiệm. Sự mầu nhiệm của một thân thể biến thành hai thân thể, với hai nhịp tim. Cùng lúc tôi nhận được sự mầu nhiệm nầy, ngoài đường phố Trung Quốc, có những cuộc xuống đường đang bị đàn áp. Xuống đường chỉ để chống những vụ bắt buộc phá thai, hay bắt buộc phải diệt đường sanh đẻ. Sự gặp gở giữa hai sự kiện ấy giúp tôi có ý viết về sanh sản, về giá trị đời sống ».


Nhưng nếu ý kiến đặt vấn đề cho bài viết là một ý  kiến cá nhơn, toàn thể bài viết, cuốn sách lại là một quan điểm chánh trị rất dấn thân của Ma Jian : «  Chánh sách kiểm soát sanh đẻ là một trọng tâm của quốc sách kiểm soát xã hội của nhà cầm quyền Trung Quốc. Không một nhân nhượng nào cả, chả cần tôn trọng sự sống, chả cần tôn trọng giá trị đạo đức, hay nhơn phẩm, nữ quyền nào cả. ». Chánh sách kiểm soát sanh sản chỉ là một chương trình cũng như bao chương trình kiểm soát sản xuất khác như sản xuất than, kẻm, sắt đồng, điện trong một kế hoạch thế thôi ! Chỉ là những con số ! Vì vậy Ma Jian quyết định viết La Route SombreCon Đường Tăm Tối. Viết để đóng góp ý kiến, viết để cùng góp tiếng nói với tất cả những phụ nữ,  với tất cả những gia đình đã bị kềm kẹp, ức hiếp bởi quốc sách bất công, vô đạo và dã man nầy : « Vấn đề tất yếu của chánh sách kiểm soát sanh đẻ theo kế hoạch kinh tế vô nhơn đạo nầy thuộc về mặt đạo đức. Tất cả phụ nữ Trung Quộc là sở hữu Nhà Nước Cộng sản Trung Quốc. Thân thể họ, bộ phận sanh sản của họ không phải sở hữu họ. Không những thân thể họ bị xúc phạm, mà giá trị sự sống cũng mất, khi một thai nhi do bà mẹ muốn giữ bị Nhà Nước buộc phải hủy giết. Đó là những hành động vô nhơn đạo đang hủy diệt linh hồn của một đất nước ! » Tác giả bình phẩm.  


Tiếng Nói Của Các Nạn Nhơn:



Cấu trúc của cuốn sách làm người đọc bở ngở : Bên lể cốt truyện, kể một cách « kể chuyện », với lời kể chuyện  của Meili, với những chi tiết khá dả man về những thảm trạng của đời nàng, có một giọng nói khác, với nhiều ẩn dụ, thỉnh thoảng xen vào « Đó là tiếng nói các trẻ con sẽ được sanh ra đấy ! Tác giả cắt nghĩa. Tôi muốn gởi  tiếng nói của tất cả những cuộc sống ấy cho đất nước Trung Hoa. Những đứa trẻ mà các người mẹ thèm muốn, trông đợi, nhưng đã bị Nhà Nước và chế độ hủy diệt, bịt mồm và vứt bỏ.  Đó là hằng triệu tiếng nói, đó là hằng triệu mạng sống, tôi viết lên để tỏ lòng thành kính của tôi đối với hằng triệu đời sống mất mát ấy. Đó cũng là đóng góp của tôi để nói rõ cái quan trọng của một Sự Sống đối với  một Gia Đình ! ».



Chuyện của Meili ? Nhưng cũng là chuyện của bao thiếu nữ, phụ nữ Trung Hoa. Và cũng cả ở Việt Nam. Xin chớ quên, tuy ta đọc chuyện Tàu nhưng hãy đừng rời tâm hồn người Việt ta.


Meili, có thai sau khi đã có con gái với chồng. Khi quyết định thụ thai không giấy phép, nàng bị nhà cầm quyền địa phương phát giác phải bỏ trốn. Hai vợ chồng Kong Zi-Meili cùng con gái trốn đi sống  lang thang trên giòng sông Dương Tử- YangTze, họ sống trên thuyền và thả trôi theo giòng nước, trôi theo giòng sông. Cuộc lang thang đưa hai vợ chồng  đến Xã Thiên Cung, một địa danh hư cấu nhưng rất biểu tượng. Nơi đấy họ được sống tự do, nghĩa là không bị Công an kiểm soát. Nhưng nơi ấy, tuy là Thiên Đường đấy, lại là nơi đầy ô nhiểm phá hoại đường sanh dục củaông chồng, tuy trả lại quyền sở hữu thân thê cho phụ nữ. … Một địa danh hoang tưởng, nhưng cũng đen tối, phụ nữ tuy có lấy lại chủ quyền thân thể, như người chồng bị tắt đường hậu duệ.  


Con đường đi thật là tăm tối ! Nhưng Ma Jian vẫn lạc quan, đầy hy vọng : « Tôi cố gắng chứng minh rằng vẫn có những người phụ nữ đấu tranh chống sự bất công của chế độ. Tôi cố gắng góp một tiếng nói để đem tý hy vọng đến các phụ nữ và các gia đình nạn nhơn của sự đàn áp khắc nghiệt ấy. Nhơn vật chánh của tôi gom góp tất cả những tiếng nói ấy, nàng là tổng hợp của mọi đau khổ, của mọi lời than vãn và như vậy mong rằng nàng sẽ đem cho toàn giới phụ nữ nạn nhơn tý nào hy vọng. Meili cuối đã thắng mọi cường lực, công an, nhà cầm quyền địa phương hay chế độ, mặc dù cuối cùng nàng vẫn bỏ lại sanh mạng. Sức mạnh của ý chí tự do của nàng đã thắng bạo cường »


Các nhơn vật trong truyện của Ma Jian là tổng hợp tất cả những nạn nhơn của chế độ Trung Cộng ngoài đời. Thật vậy, xã hội Tàu ngày nay vẫn đầy bất công và nạn nhơn : « Đoạn  đầu trong sách kể toàn thể cộng đồng trong làng bất mãn chế độ và nổi dậy. Nhưng rất nhanh chóng, dần dần, phong trào tàn rụi chỉ còn lại một cá nhơn tiếp tục cuộc đấu tranh. Trung Hoa là như vậy, đúng hay sai ? Hãy nhìn phong trào sanh viên ở Thiên An Môn năm nào ! Tại Quảng trường thoạt đầu có cả triệu sanh viên và đồng bào xuống đường đấu tranh đòi Dân chủ và đòi dẹp bỏ chế độ tham nhũng. Nhưng đến ngày 4 tháng 6 năm 1989, chỉ còn một người, một cá nhơn độc thân, độc diển đứng chận đoàn xe tăng. Đó là bộ mặt thật của những cuộc đấu tranh ở Trung Quốc ngày nay. Quần chúng đã bị dẹp. Chỉ còn những cá nhơn (can trường, anh hùng) đấu tranh đơn độc. Cuối cùng, nhơn vật nữ của tôi Meili -Ma Jian tác giả nói- toàn thắng, nàng lấy lại sở hữu thân thể nàng, lấy lại quyền sanh sản của nàng, lấy lại quyền được làm mẹ, tạo đời sống, quyền được sanh, quyền được trao sự sống, nàng sanh nở một con trẻ mặc dù trong lén lút, ngoài pháp luật. Tuy chỉ một bước chiến thắng nhỏ nhoi, nhưng đấy là một cuộc nhảy vọt đấu tranh khổng lồ chống bạo quyền ».


Cuộc Tranh Đấu Cá Nhơn:  


Đấu tranh cá nhơn chống Bạo quyền là chủ để chánh của nhiều tác phẩm văn chương Trung quốc ngày nay.  Nhưng khi đọc Ma Jian, rất nhiều khác lạ. Văn phong ? Cốt truyện ? Cách trình bày, cấu trúc, cái nhìn dấn thân ? Hay những hình ảnh tả chân quá thực tế táo bạo, tạo những cảm súc mạnh, những ấn tượng khó chịu đến phải bỏ sách xuống? Cũng có thể tất cả. Nhưng phải thận trọng, chúng ta cũng phải nhận rõ những khía cạnh khá phức tạp của xã hội Tàu ngày nay. Tác giả cảnh giác : «  Khi người phụ nữ bị bắt buộc phải phá thai hay diệt đường sanh đẻ, người chồng phần đông cuối đầu chấp nhận Ít thấy phần phản đối nơi người chồng. Hầu như số đông các người chồng đều chấp nhận số phận. Nhưng vừa qua, (đầu năm 2012) có xảy một vụ. Anh chồng phản kháng. Sau khi bà vợ bị bắt buộc phá thai, anh chồng nổi cơn điên, giết chết hai nhơn viên công lực của Sở Kế Hoạch Gia đình Tàu tại địa phương. Hai ngày sau, anh chồng bị bắt và bị hành quyết. Vì vậy, trong một tiểu thuyết, một hư cấu, huyền thoại chúng ta có quyền kể những chuyện đấu tranh cá nhơn. Cấn phải có người đấu tranh, cần có người có nhu cầu đấu tranh để biết mình là người đứng thẳng. Chúng ta phải ủng hộ và khuyến khích những anh hùng can trường ấy ». 


Đọc xong, bồi hồi nghĩ đến Việt Nam. Việt Nam ngày nay, mặc dầu Kế hoạch Gia đình đã một thời được đưa lên hàng Quốc Sách, được người  anh hùng Điện Biên Phủ, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp  lãnh đạo cũng không – hay không được biết   những mẫu chuyên như Ma jian kể - vi bưng bít giỏi hơn Tàu ?


Nhưng cũng như Ma Jian hiện nay, cũng như mọi anh chị em người Hoa tỵ nạn hay người Việt tỵ nạn Cộng sản ở hải ngoại, dù đôi mắt chúng ta hằng ngày ngắm nhìn theo dõi bầy con cháu hậu duệ, trai có gái có, sống thoải mái nơi quê người,  (Ma Jian bốn cô gái sống ở London) nhưng tim chúng ta đều thổn thức hướng về quê hương bên kia quả đất. Cuộc đấu tranh chống bất công, chống độc tài vẫn tiếp tục, phải tiếp tục… để đòi lại quyền tự quyết, quyền tự quản, quyền làm chủ đất nước mình, đất đai mình, xóm làng mình, nhà cửa mình và cả thân thể mình.Và cám ơn Ma Jian đã  cho tôi một bài học viết về sự thật. Viết sự thật để đóng góp, viết sự thật để xây dựng… Ma Jian viết sự thật để xây dựng một người Hoa đạo đức, tử tế, một người Hoa thật. Chúng ta người Việt cũng phải viết sự thật. Viết sự thật để cùng đóng góp với người dân trong nước, cùng bất mãn, cùng cảm xúc. Viết sự thật để sống với người dân. Đó là dấn thân – être engagé. Đó là bổn phận của người Tử Tế. Người Pháp có Gentilhomme, người Anh có Gentlemen, người Tàu có người Quân tử, Việt Nam ta phải có người Việt Tử tế, có một Suy nghĩ Tử tế.


Suy nghĩ Tử tế là Đạo Đức


« Parions à bien penser. Travaillons à bien penser. Voilà le principe de la morale » Hãy cùng thi nhau suy nghĩ chín chắn. Hãy cố tập luyện suy nghĩ sâu sắt. Đó là định lý của Đạo Đức.


Blaise Pascal 1623-1662, Pensées Ma Jian qua Con đường Tăm tối, đã vẽ cho chúng ta một bài học : Coi chừng Trung Cộng và Nạn Trung Cộng ! Coi chừng Nạn Công sản và Hán Thuộc !


Thật là :Hởi ai lẳng lặng mà ngheDữ răn việc trước lành dè việc sau … » (Ngưyễn Đình Chiểu - Lục Vân Tiên)


Hồi Nhơn Sơn, ngày vào Xuân 2015


Phan Văn Song