Chính Phủ Trần Trọng Kim- Chính Phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ngày 17-4-1945
Trần Gia Phụng (Danlambao) - Sau khi vua Bảo Đại công bố Bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ngày 11-3-1945, Phạm Quỳnh cùng toàn thể thượng thư sáu bộ trong triều đình Huế xin từ chức. Vua Bảo Đại triệu tập nhân sĩ khắp nước đến gặp, để thăm dò việc thành lập chính phủ mới.
Lúc đó, người Nhật đưa Trần Trọng Kim từ Singapore về Sài Gòn ngày 30-3-1945, rồi đưa ông ra tới Huế ngày 5-4-1945. Trần Trọng Kim sinh tại Hà Tĩnh năm 1883, học trường Vinh, rồi trường Thông sự Ninh Bình. Năm 1905, ông qua Pháp, học trường Thương mại La Salle tại Lyon, sau chuyển qua trường Thuộc Địa Pháp, rồi trường Sư Phạm Melun.
Tốt nghiệp năm 1911, ông trở về nước dạy tại trường Trung học Bảo Hộ (Lycée du Protectorat) và trường Sĩ Hoạn (Hà Nội), rồi làm Thanh Tra Tiểu học Bắc Kỳ, hưu trí năm 1942. Ông viết nhiều sách nghiên cứu giá trị về văn chương, triết học, nhất là bộ Việt Nam sử lược, xuất bản lần đầu tại Hà Nội năm 1920.
Năm 1943, được tin bị người Pháp nghi ngờ, ông nhờ người Nhật đưa vào Sài Gòn cùng Dương Bá Trạc. Đầu năm 1944, hai ông qua Singapore. Tại đây Dương Bá Trạc từ trần vì bịnh phổi ngày 10-12-1944. Tháng 1-1945, Trần Trọng Kim đi Bangkok. Ông trở về nước sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945.
Là một nhà giáo và là một nhà nghiên cứu nghiêm túc, Trần Trọng Kim cho rằng vua Bảo Đại là vị vua ham ăn chơi, không chăm lo việc nước nên không muốn gặp. Tuy nhiên, theo lời khuyên của Hoàng Xuân Hãn, Trần Trọng Kim đồng ý triều yết vua Bảo Đại ngày 7-4-1945. Gặp xong, ông thay đổi ý kiến.
Hoàng Xuân Hãn kể lại như sau: “Cụ [Trần Trọng Kim] hỏi tôi thì tôi cũng nói với cụ nên gặp ông Bảo Đại, rồi có ý gì thì cụ nói sau, chứ cụ đừng có nói trước. Cụ cứ bảo: “Bảo Đại là một cái anh chỉ biết ăn chơi, không hiểu cái gì cả”. Cụ cứ nói như thế. Sau cụ vào thăm ông Bảo Đại thì cụ ngồi đến 2, 3 giờ đồng hồ cơ. Lúc ra thì trái lại, lại thấy cụ nói: “Nó thông minh lắm chứ không phải như tôi tưởng.”(Hoàng Xuân Hãn trả lời phỏng vấn đài R.F.I (Paris) do Thụy Khê thực hiện, đăng lại trong mục “Những cuộc tiếp xúc khó quên”, sách La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), do Hữu Ngọc - Nguyễn Đức Hiền sưu tập, tập I, Con người và trước tác (phần 1), Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 481.)
Trong cuộc triều yết nầy (7-4), Trần Trọng Kim đề nghị với vua Bảo Đại nên mời Ngô Đình Diệm lập chính phủ. Nhà vua liền nhờ người Nhật tìm kiếm ông Diệm để mời ông ra chấp chánh. Người Nhật trả lời không kiếm được ông Diệm, mặc dầu ông Diệm đang sinh sống tại Sài Gòn. Theo Trần Trọng Kim, có thể vì ông Diệm thuộc phe cánh Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, mà cuối thế chiến thứ hai, Nhật không chọn Cường Để và chọn vua Bảo Đại, nên Nhật cũng không mời ông Diệm. (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tt. 49-50.)
Vua Bảo Đại đợi ba tuần lễ mà không gặp được Ngô Đình Diệm, nên nhà vua uỷ cho Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các. Lúc đầu, Trần Trọng Kim từ chối, thì vua Bảo Đại nói: “Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.” Sau lời thuyết phục của vua Bảo Đại, Trần Trọng Kim “thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu rằng: “Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức gì cả, song ngài nói vì nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi tìm người, hễ có thể được tôi xin tâu lại.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 51.)
Trần Trọng Kim thấy hữu lý nên chấp thuận. Ông đưa ra hai tiêu chuẩn để chọn bộ trưởng vào chính phủ: “Một: phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 51.)
Ngày 17-4-1945, tại điện Thái Hòa (Huế), Trần Trọng Kim trình danh sách chính phủ lên vua Bảo Đại và được chuẩn y. Lúc đó, có cả sự hiện diện của viên đại sứ Nhật tại Huế là Massayuki Yokohama. Nội các Trần Kim gồm đa số là những chuyên gia và trí thức: "Tất cả những vị nầy đều là những vị ái quốc chân thành. Họ không hận thù gì nước Pháp. Trẻ tuổi, can đảm, ý thức được nhiệm vụ ngắn ngủi của mình, họ muốn rằng chủ quyền quốc gia được đánh dấu khởi đầu từ họ.”(Bảo Đại, sđd. tr. 167.)
Sau đây là thành phần chính phủ Trần Trọng Kim tại Huế ngày 17-4-1945:
Nội các Tổng trưởng [thủ tướng]: Trần Trọng Kim, giáo sư
Nội vu Bộ trưởng: Trần Đình Nam, y sĩ
Ngoại giao Bộ trưởng: Trần Văn Chương, luật sư
Tư pháp Bộ trưởng: Trịnh Đình Thảo, luật sư
Gíáo dục và Mỹ nghệ Bộ trưởng : Hoàng Xuân Hãn, toán học thạc sĩ
Tài chánh Bộ trưởng: Vũ Văn Hiền, luật sư
Thanh niên Bộ trưởng: Phan Anh, luật sư
Công chánh Bộ trưởng: Lưu Văn Lang, kỹ sư [Không nhận]
Y tế Bộ trưởng: Vũ Ngọc Anh, y khoa bác sĩ
Kinh tế Bộ trưởng: Hồ Tá Khanh, y khoa bác sĩ
Tiếp tế Bộ trưởng: Nguyễn Hữu Thí, cựu y sĩ
(Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 52-53.)
(Báo TRUNG BẮC CHỦ NHẬT số ngày 20-5-1945 đưa tin về sự thành lập chính phủ Trần Trọng Kim)
Chính Phủ Trần Trọng Kim không có bộ binh
Đây là chính phủ đầu tiên của Việt Nam độc lập được tổ chức theo cơ cấu tây phương, gồm nhiều bộ. Đứng đầu mỗi bộ là một vị bộ trưởng phụ trách chuyên ngành. Tất cả những bộ trưởng trong chính phủ đều là những chuyên gia tân học, gồm một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư. Đặc biệt chính phủ nầy không có bộ Binh, hay bộ Quốc phòng, hoặc bộ An ninh.
Trước đây, sau khi vua Bảo Đại từ Pháp về cầm quyền năm 1932, Pháp cải tổ triều đình Huế ngày 2-5-1933, bộ Binh bị bãi bỏ. Nay chính phủ Trần Trọng Kim dưới quyền vua Bảo Đại cũng không có bộ Binh. Không biết lý do nào, một chính phủ được tổ chức theo lối mới, lại không có bộ Binh hay bộ Quốc phòng? Riêng Trần Trọng Kim, trong hồi ký của mình, giải thích như sau:
“Việc binh bị trong nước là việc quan trọng đến vận mạng cả nước, mà lúc ấy quân lính và súng ống không có. Ở kinh đô Huế có tất cả hơn một trăm lính bảo an, tức lính khố xanh cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ, đạn cũ, bắn mười phát thì năm sáu phát không nổ. Ở các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các phủ huyện thì có độ chừng vài chục người. Việc phòng bị do quân Nhật Bản đảm nhiệm hết. Vì lẽ đó và các lẽ khác nữa mà lúc đầu chúng tôi không đặt bộ Quốc phòng. Một là trong khi quân Nhật đang đóng ở trong nước, nếu mình đặt bộ Quốc phòng thì chỉ có danh không có thực, và người Nhật có thể lợi dụng bắt người mình đi đánh giặc với họ. Hai là trước khi mình có đủ binh lính và binh khí, ta hãy nên gây cái tinh thần binh bị, thì rồi quân đội mình mới có khí thế.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 57-58.)
Tuy Trần Trọng Kim giải thích như thế, nhưng có hai dư luận bàn tán khác nhau về việc nầy: Thứ nhứt, người ta cho rằng chính phủ Trần Trọng Kim gồm toàn khoa bảng chuyên viên, ít hiểu biết về việc quân sự nên không thấy rõ tầm mức quan trọng của bộ Quốc phòng. Thứ hai, có thể người Nhật muốn nắm toàn bộ vấn đề quốc phòng mà không giao cho chính phủ Trần Trọng Kim, vì sợ chính phủ nầy theo Đồng minh, có thể bất ngờ tấn công Nhật. Làm như thế, Nhật còn buộc chính phủ Trần Trọng Kim lệ thuộc vào chính sách quân sự chung của Nhật tại Đông Nam Á.
Dầu sao, việc quốc phòng chỉ dựa trên quân Nhật là điều sẽ rất tai hại về sau, vì khi quân Nhật rút lui hay đầu hàng Đồng minh, thì chính phủ Trần Trọng Kim không có lực lượng quân sự để tự bảo vệ mình, bảo vệ an ninh lãnh thổ, và sẽ dễ dàng bị sụp đổ. Không tổ chức bộ Quốc phòng, chính phủ Trần Trọng Kim mở trường huấn luyện thanh niên, chú trọng đến việc phát triển phong trào thanh niên.
Về phần vua Bảo Đại, ngày 8-5-1945, nhà vua đưa ra chủ trương xây dựng một hiến pháp theo khẩu hiệu “Dân vi quý” của Mạnh Tử, và ngày 30-6-1945, nhà vua ban hành sắc dụ thành lập Hội đồng soạn thảo hiến pháp. Hội đồng mới bắt đầu làm việc, thì tình hình thay đổi nhanh chóng.
Quốc Hiệu, Quốc Kỳ và Quốc Ca
Bắt tay vào làm việc, trước hết vào ngày 4-5-1945, chính phủ quyết định quốc hiệu mới là Đế Quốc Việt Nam, chứ không dùng các danh xưng An Nam, Đại Nam hay Đại Việt.
Kinh đô Huế được đổi thành Thuận Hóa. Ngày 2-6-1945, chính phủ chọn quốc kỳ Việt Nam nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ ly. Quốc ca là bài “Đăng đàn cung”.
Quẻ ly là một trong tám quẻ đơn của bát quái trong kinh Dịch, gồm ba hào (vạch ngang): hào dương dưới cùng (một vạch ngang), hào âm ở giữa (một vạch ngang đứt ở giữa), và hào dương trên cùng (một vạch ngang). Ly vi hỏa là lửa, sáng màu đỏ. Theo quan niệm của Hậu thiên bát quái, ly đóng ở phương nam.
Như vậy, màu vàng của nền cờ quẻ ly vừa là màu cờ long tinh của hoàng gia (truyền thống), vừa tượng trưng cho "thổ", thích hợp với quẻ ly để chỉ vị trí nước ta (phương nam), và cả về màu sắc (hỏa, màu đỏ, sinh thổ, màu vàng, theo ngũ hành tương sinh), đồng thời với ý nghĩa người Việt Nam máu đỏ da vàng. Sau đây là lời giải thích của Trần Trọng Kim về lá cờ do ông đưa ra:
“Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc sử diễn ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng: “Đầu voi phất ngọn cờ vàng”. Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ ly là vì trong lối chơi chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở kinh Dịch, mà quẻ ly chủ phương nam. Chữ ly còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương.
Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ ly có đủ các ý nghĩa.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd, tt. 60-61.)
Khi Trần Trọng Kim chọn cờ quẻ ly, ông cũng biết rằng “có người nói: cờ quẻ lý là một điềm xấu cho nên thất bại vì ly là lìa. Ly là lìa là một nghĩa khác chứ không phải nghĩa chữ ly là quẻ. Và việc làm của một chính phủ là cốt ở nghĩa lý, chứ không phải là sự tin nhảm vô ý thức.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 61.)
Trong khi đó, theo các nhà Nho học, bài thiệu về các quẻ trong bát quái có câu“càn tam mãn, ly trung hư”, tức quẻ càn gồm có ba vạch ngang đầy đủ, trong khi quẻ ly có vạch giữa bị đứt đoạn, nên các ông cũng cho đây là điềm không tốt.
Lời bài quốc ca “Đăng đàng cung” như sau:
“Kìa núi vàng bể bạc
Có sách trời... sách trời định phần!
Một dòng ta - gầy non sông vững chắc.
Đã ba ngàn mấy trăm năm!
Bắc Nam cùng một nhà con Hồng cháu Lạc.
Văn minh đào tạo
Màu gấm hoa càng đượm
Rạng vẻ dòng giống Tiên Long.
Ấy công gầy dựng
Từ xưa đà khó nhọc
Nhớ ơn dày nặng
Lòng trung quân đã sẵn
Cố thương nhau... thương nhau một niềm.
Nguyện nhà Việt muôn đời thạnh trị.”
(Lê Văn Lân, “Quốc kỳ và quốc ca Việt Nam thời quân chủ trong thế kỷ 20 qua”, Tuyển tập Nhớ Huế số 12, không đề năm, California, tr. 27.)
Như thế, vua Bảo Đại và Trần Trọng Kim đã hợp nhất hai nền hành chánh bảo hộ Pháp và địa phương Việt, nên ban đầu còn nhiều khó khăn trong buổi giao thời. Chính phủ nầy không tồn tại được lâu dài, nhưng cũng đặt định được một số nền tảng căn bản như chúng ta sẽ thấy trong hoạt động của chính phủ Trần Trọng Kim. (Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto: Nxb. Non Nước, 2014.)
(Toronto, Canada)
Hoạt động của :Chính Phủ Trần Trọng Kim(17-4-1945 – 23-8-1945)Ngày Quân-Lực VNCH 1971 - 1973
Trần Gia Phụng (Danlambao) - Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ hoạt động từ tháng 4-1945 đến tháng 8-1945, nhưng đã đặt nền móng căn bản cho nền hành chánh tương lai Việt Nam, chương trình giáo dục của Hoàng Xuân Hãn rất hữu ích cho sự phát triển văn hóa Việt Nam và chính phủ Trần Trọng Kim đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết nạn đói ở Bắc Việt Nam.
*
Thu hồi và thống nhất lãnh thổ
Trong phiên họp đầu tiên của nội các, luật sư Trần Văn Chương, bộ trưởng Ngoại giao, người cao tuổi nhất, được bầu làm nội các phó tổng trưởng (phó thủ tướng). Chính phủ đổi Bắc Kỳ thành Bắc Bộ, Trung Kỳ thành Trung Bộ, Nam Kỳ thành Nam Bộ, dầu lúc đó Nam Bộ chưa chính thức được sáp nhập vào trung ương.
Trần Trọng Kim cử Trần Văn Chương ra Hà Nội thương lượng với tướng Yuichi Tsuchihashi, tổng tư lệnh quân đội Nhật, kiêm toàn quyền Đông Dương, về sáp nhập Bắc Bộ vào Việt Nam. Phía Nhật không trở ngại. Ngày 2-5-1945 vua Bảo Đại cử Phan Kế Toại, xuất thân trường Hậu bổ Hà Nội và trường Thuộc địa Paris là trường chuyên đào tạo quan chức thuộc địa Pháp, nguyên tổng đốc Bắc Ninh, làm khâm sai Bắc Bộ. Phan Kế Toại chính thức nhận chức tại phủ thống sứ cũ, nay được gọi là Bắc Bộ phủ, ngày 5-5-1945.
Ngày 13-7-1945, đích thân Trần Trọng Kim ra Hà Nội thương thuyết. Toàn quyền Nhật Bản Yuichi Tsuchihashi chịu trả ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng, vốn là nhượng địa của Việt Nam cho Pháp từ năm 1888.
Chính phủ bổ nhiệm Trần Văn Lai làm đốc lý (thị trưởng) Hà Nội, Vũ Trọng Khánh làm đốc lý Hải Phòng và Nguyễn Khoa Phong làm đốc lý Đà Nẵng. (David G. Marr, Vietnam 1945, the Quest for Power, University of California Press, 1995, tt. 132-133.)
Nam Kỳ (cũ) nay là Nam Bộ vốn là thuộc địa của Pháp, theo quy chế riêng. Vì vậy, lúc đầu người Nhật trì hoãn việc trả Nam Bộ, nhưng sau người Nhật chịu giao Nam Bộ lại cho Việt Nam từ ngày 8-8-1945. (David G. Marr, sđd. tr. 135.)
Nguyên nhân có thể lúc đó Hoa Kỳ thả bom nguyên tử ngày 6-8-1945 xuống Hiroshima, Nhật sắp sửa đầu hàng Đồng minh và rút quân về nước, nên Nhật mới chịu rời Nam Bộ. Ngày 14-8-1945, vua Bảo Đại ký dụ bổ nhiệm Nguyễn Văn Sâm làm khâm sai Nam Bộ. (Vũ Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế quốc Việt Nam (3-8/1945), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 106.)
Trong khi đó, Hoa Kỳ thả bom nguyên tử lần thứ hai xuống Nagasaki ngày 9-8-1945, thì ngày 14-8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Vì vậy, quân Nhật ở Sài Gòn chưa kịp bàn giao Nam Bộ trở về lại với Việt Nam thì chính phủ Trần Trọng Kim sụp đổ. Việt Minh nổi lên cướp chính quyền.
Giáo dục và thanh niên
Về giáo dục, chính phủ chủ trương dùng quốc ngữ giảng dạy thay chữ Pháp, và rất chú trọng đến ngành giáo dục kỹ thuật. Cầm quyền chưa được hai tháng, vào ngày 8- 6-1945, chính phủ quy định rằng từ đây, chữ quốc ngữ và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức ở các công sở và trường học. Trong trường học, Pháp văn được giảng dạy như một ngoại ngữ. (Phạm Hồng Tung, Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2009, 241.)
Kỳ thi tiểu học năm nay là kỳ thi đầu tiên bằng quốc ngữ, và dự định sẽ dùng quốc ngữ trong các kỳ thi cao hơn. Chương trình trung tiểu học được Việt Nam hóa, do bộ trưởng bộ Giáo dục Hoàng Xuân Hãn đưa ra. Chương trình nầy là nền tảng căn bản cho chương trình giáo dục của các chính phủ trong chính thể Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa sau này.
Bộ trưởng bộ Thanh niên Phan Anh có sáng kiến vận động thành lập trường Thanh niên tiền tuyến. Trường do Phan Tử Lăng làm hiệu trưởng, khai giảng khóa đầu tiên ngày 2-7-1945 gồm 43 học viên, hướng dẫn học viên hoạt động xã hội và cả quân sự. Trụ sở trường đặt tại một trại lính hộ thành cũ, phía trước cửa Quảng Đức. Cửa nầy ở phía nam kinh thành Huế, bên tay trái của Thượng Tứ từ ngoài nhìn vào. (Cửa Quảng Đức bị sập trong trận lụt năm 1953 nên còn được gọi là cửa Sập.) Phong trào thanh niên tham gia hoạt động xã hội phát triển trên toàn quốc. Ở trong Nam, phong trào thanh niên được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đặt tên là “Thanh niên tiền phong”.
Các đoàn thanh niên nầy góp phần đắc lực trong việc vận động cứu đói đồng bào Bắc Bộ. Từ đó ý thức xã hội và tinh thần dân tộc quật khởi mạnh mẽ trong giới thanh niên. Phong trào thanh niên đang hăng say hoạt động, thì chính phủ Trần Trọng Kim từ chức sau khi Nhật bại trận.
Nhiều thanh niên xuất thân từ phong trào nầy chuyển qua hoạt động cho Việt Minh khi Việt Minh chiếm chính quyền 19-8-1945. Việt Minh sử dụng những lực lượng thanh niên nầy cho các nhu cầu chính trị của đảng Cộng Sản.
Những dự án cải cách
Ngày 30-6-1945, vua Bảo Đại ban hành đạo dụ số 69 thành lập Ủy ban Dự thảo hiến pháp gồm 15 ủy viên: Phan Anh (thuyết trình viên), Hoàng Đào, Vũ Đình Hòa, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thai Mai, Vương Quang Nhường, Nguyễn Tường Long, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thinh và Nguyễn Trác. (Việt Nam tân báo, số ra ngày 7-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tt. 236-237.)
Đạo dụ số 70 của vua Bảo Đại thành lập Ủy ban Cải cách cai trị, tư pháp và tài chánh gồm 15 ủy viên: Vũ Văn Hiền (thuyết trình viên), Trần Văn Ân, Trần Văn Chương, Phạm Khắc Hòe, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát, Trần Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu Tảo, Trịnh Đình Thảo, Phan Kế Toại. (Việt Nam tân báo, số ra ngày 9-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tr. 237.)
Ủy ban Cải cách Giáo dục hình thành do đạo dụ số 71 của vua Bảo Đại gồm 18 ủy viên: Hoàng Xuân Hãn (thuyết trình viên), Nguyễn Thanh Long, Hoàng Thị Nga, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thanh Giang, Ngụy Như Kon-Tum, Hồ Văn Ngà, Bùi Kỷ, Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Phúc Ưng Quả, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thinh, Hoàng Đạo Thúy, Nguyễn Xiển. (Việt Nam tân báo, số 10-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tr. 237.)
Cuối cùng, đạo dụ số 83 do vua Bảo Đại ban bố ngày 1-7-1945 thành lập Hội đồng tư vấn quốc gia, gồm cả ba ủy ban cải cách trên đây. (Các đạo dụ vua Bảo Đại được công bố trên báo L'Action các ngày 2, 13, 17-7-1945. Phạm Hồng Tung trích dẫn, sđd. tr. 236.)
Tất cả các ủy ban nầy tập trung nhiều nhân tài trên khắp ba miền đất nước, nhưng rất tiếc chưa hoạt động thì thời cuộc biến đổi.
Chính phủ Trần Trọng Kim cứu đói
Một trong những chương trình hành động khẩn cấp của chính phủ Trần Trọng Kim là giải quyết nạn đói ở Bắc bộ. Nạn đói bắt đầu từ mùa đông năm 1944, lúc đó còn Pháp thuộc. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh, Pháp ở Đông Dương.
Khi chính phủ mới được thành lập (17-4-1945), chính phủ Trần Trọng Kim ra lệnh bãi bỏ việc bắt buộc nông gia bán lúa gạo cho nhà nước, và để cho dân chúng tự do buôn bán gạo. Điều nầy có nghĩa là những quy định trước đây về số lượng lúa gạo phải bán cho nhà nước theo diện tích canh tác cũng bị bãi bỏ. Người dân được tự do vận chuyển buôn bán gạo dưới 50 kí lô mà không cần phải có giấy phép của chính quyền.
Ở các tỉnh, những ngân hàng nông nghiệp sẽ phụ trách mua gạo cho nhu cầu quân sự hay nhu cầu thực phẩm của chính quyền dưới sự kiểm soát của tỉnh trưởng. Những người nghèo đói còn sống sót và những người vô gia cư được chính phủ tập trung vào những nhà nuôi dưỡng đặc biệt để phục hồi dần dần.
Chính phủ thành lập ty "Liêm Phóng Kinh Tế", tức cảnh sát kinh tế, và giao cho Nguyễn Duy Quế điều khiển, kiểm soát gắt gao giá gạo, nhằm ngăn chận những vụ đầu cơ hay buôn lậu. (Vũ Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế quốc Việt Nam (3-8/1945), sđd. tt. 95-96.)
Nhờ thế, việc đầu cơ tích trữ hay buôn lậu gạo giảm hẳn. Tình hình nông gia được cải thiện nhờ giá bán cho nhà nước cao gấp 5 lần so với thời gian trước đó dưới thời còn Pháp.
Vua Bảo Đại ra sắc chỉ ngày 23-5-1945 hủy bỏ nợ nần do các tiểu nông vay tiền nhà nước trước đây. (Nguyễn Thế Anh, “The Great Famine of 1945", The Vietnam Review 4, Spring-Summer 1998, Hamden, Connecticut, USA, tr. 469.) Chính phủ cho hạ thấp mức thuế nông dân phải đóng góp. Bộ trưởng bộ Tiếp tế Nguyễn Hữu Thí đến Sài Gòn vào đầu tháng 6-1945 để thương thuyết với người Nhật nhằm thay đổi phương cách chở gạo từ Nam ra Bắc.
Để tránh bị phi cơ Đồng minh oanh tạc, gạo sẽ được chở bằng các đoàn thuyền buồm thuê của thường dân. Bộ trưởng Nguyễn Hữu Thí còn đề nghị đưa 1,000,000 dân từ Bắc bộ và Trung bộ vào định cư ở Nam bộ. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 469.) Những chuyến xe hay những chiếc ghe chở gạo từ Nam ra Bắc, khi quay trở về, thì chở di dân vào Nam lập nghiệp. (David G. Marr, sđd. tt. 102-103.)
Ngày 30-6-1945, chính phủ Trần Trọng Kim cho đánh thuế du hý (vui chơi, giải trí) để lấy tiền tài trợ cho những hoạt động cứu đói ở Bắc bộ. Chính phủ mở chiến dịch báo chí thông tin về những bất hạnh của đồng bào Bắc bộ để kêu gọi dân chúng tiếp tay cứu trợ. Những cuộc lạc quyên được tổ chức trên toàn quốc. Chiến dịch nầy đem đến nhiều thành quả.
Tại Hà Nội, vào tháng 5-1945, Tổng hội Cứu tế quyên được 782,403 đồng. Với số tiền nầy, Tổng hội đã mua được từ kho nhà nước 1,476 tấn gạo phát chẩn cứu đói. (David G. Marr, sđd. tt. 102-103.) Ủy ban Cứu tế Trung ương giúp đỡ Bắc bộ tại Huế và Ủy ban tương trợ giúp đỡ những nạn nhân Bắc bộ tại Sài Gòn, được thành lập. Số tiền quyên góp được dùng mua gạo chở ra giúp đỡ đồng bào đất Bắc. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 469.)
Tại Nam Bộ, chỉ nội trong tháng 5-1945, hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và trong vòng một tháng đã quyên được 1,677,886 đồng, kể cả 481,570 đồng mua và chuyên chở 1,592 tấn gạo ra Bắc giúp cứu đói. (Báo L'Action [Hành Động] các số 24-5 và 22-6-1945, Vũ Ngự Chiêu trích dẫn, sđd. tr. 96.)
Lực lượng tham gia các phong trào cứu đói chủ chốt là thanh niên, sinh viên, học sinh và các đoàn thể đã được thành lập trong thời toàn quyền Decoux, như Hướng đạo, Gia đình Phật tử... vì đã có kinh nghiệm đoàn ngũ hóa. Đây là lần đầu tiên giới trẻ Việt Nam thực sự bắt tay vào hoạt động xã hội. Những nhân vật nổi tiếng của phong trào nầy là Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu (Hướng đạo), Lê Đình Thám (Gia đình Phật tử) ...
Những biện pháp của chính phủ cùng sự tiếp tay của đồng bào toàn quốc, đã làm cho tình hình Bắc Bộ nhanh chóng trở lại bình thường. Vẫn còn một vài nơi người nghèo sắp hàng trước các điểm phân phối thực phẩm miễn phí, nhưng nói chung tình hình khá ổn định vào tháng 6-1945. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 470.)
Nạn đói tưởng đã qua đi. Mặc dầu "Ủy ban Bảo vệ và Giám sát đê điều" được thành lập để lo việc giữ đê, ngăn ngừa nước dâng lên gây lụt lội, nhưng bất ngờ những cơn mưa như thác đổ vào tháng 8-1945 đã tràn ngập tất cả các cánh đồng các tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Hải Dương. Nạn mất mùa trở lại. Vài nơi thiếu gạo, dân chúng đã phải ăn cả lúa giống để dành làm vụ mùa sau. (Nguyễn Thế Anh, bđd. tr. 470.)
Cộng sản phá rối
Khi nạn đói xảy ra năm 1945, đảng Cộng Sản Đông Dương và Việt Minh (VM) lên án Pháp và Nhật là tác nhân gây ra nạn đói, và chống việc trưng mua lúa gạo.
Ngày 17-4-1945, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập và lo chuyện cứu đói, thì VM lợi dụng nạn đói để tuyên truyền và phát triển. Việt Minh đả kích chính phủ Trần Trọng Kim, khích động dân chúng lăng nhục những viên chức chính quyền lo việc cứu tế. Khi biết được Đức rồi Nhật sắp đầu hàng Đồng minh, một mặt VM xúi giục dân chúng đánh phá các kho lúa. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tr. 96.) Một mặt khác, VM đứng ra tổ chức cướp các kho gạo. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions Du Seuil, 1952, tr. 131.)
Việt Minh còn âm thầm chận bắt những chuyến xe hay những chuyến ghe chở gạo từ miền Nam ra, rồi VM đem tiếp tế cho những mật khu của họ. (David G. Marr,sđd. tt. 102-103.)
Việt Minh hợp tác và cung cấp tin tức cho phe Đồng minh, chính là cho Hoa Kỳ, dùng máy bay bắn phá các trục giao thông, khiến việc tiếp tế thực phẩm rất khó khăn. Ngày 23-7-1945, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, bộ trưởng bộ Y tế, trên đường đi công tác, từ Thái Bình trở về Hà Nội, đến gần Bần Yên Nhân thì bị máy bay Đồng minh bắn chết. (Trần Trọng Kim, sđd. tr. 78.) Sự đi lại khó khăn đến nỗi chính phủ Trần Trọng Kim phải dùng xe đạp để chuyển công văn. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tt. 96-97.)
Từ đó, nạn đói trầm trọng trở lại. Nạn đói càng trầm trọng thì VM càng dễ tuyên truyền, vừa phản đối chính quyền, vừa chiêu dụ dân chúng bằng cách dùng gạo cướp được để cứu đói những ai chịu theo VM. Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) đã tự nhận rằng ông theo VM vì bản thân và gia đình quá đói. (Văn Cao, “Tại sao tôi viết Tiến quân ca”, viết ngày 7-7-1976, đăng lại trong sách Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao, TpHCM: Nxb Trẻ, 1988, tt. 14-17.)
Đây là một trong những lý do giúp cho thế lực VM cộng sản nhanh chóng phát triển rộng rãi ở các vùng rừng núi và nông thôn vùng đông bắc Bắc Kỳ trong thời gian nầy.
Nhìn lại chính phủ Trần Trọng Kim
Trong cuộc họp hội đồng chính phủ ngày 3-8-1945 tại Huế, Trần Trọng Kim báo cáo công việc ra Bắc thương thuyết và thu xếp với người Nhật. Lúc đó phó thủ tướng Trần Văn Chương có ý cho rằng Trần Trọng Kim thương thuyết với người Nhật thành công là do công ông Chương ra Bắc trước đó. (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 88.) Không biết có phải vì cuộc tranh công nội bộ hay vì nhận thấy tình hình thế giới biến chuyển và nhất là tình hình Bắc Kỳ xáo trộn do những hoạt động của Việt Minh, Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 5-8-1945.
Vua Bảo Đại chấp thuận, nhưng yêu cầu Trần Trọng Kim duy trì chính phủ lâm thời và ủy cho Trần Trọng Kim lập nội các mới. Trong tình hình lúc bấy giờ, Trần Trọng Kim không mời đủ người tham gia chính phủ.
Ngày 20-8-1945, Trần Trọng Kim từ bỏ ý định tiếp tục cầm quyền và tuyên bố đã hoàn thành hai sứ mệnh lịch sử là thống nhất lãnh thổ và đặt định nền tảng hành chánh căn bản cho đất nước. (David G. Marr, sđd. tr. 438.). Chính phủ của ông họp phiên chót ngày 23-8-1945 rồi tự giải tán. Về phía vua Bảo Đại, hai ngày sau, 25-8-1945, nhà vua tuyên chiếu thoái vị.
Nói chung, cả vua Bảo Đại và giáo sư Trần Trọng Kim đều muốn nhân cơ hội Nhật đảo chánh Pháp để thoát ra khỏi nền bảo hộ của Pháp, tuyên bố độc lập. Tuy chỉ cầm quyền chưa đầy 6 tháng, chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện được nhiều công trình đáng kể:
Chính phủ Trần Trọng Kim hợp nhất hai nền hành chánh Pháp và hành chánh Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, thành nền hành chánh duy nhất Việt Nam. Chính phủ cũng đã hợp nhất nhất Bắc Kỳ và Nam Kỳ vào chính phủ trung ương Việt Nam.
Tháng 5-1945, Nhật giao Bắc Kỳ cho Việt Nam và được đổi thành Bắc Bộ. Nhật cũng đồng ý giao Nam Kỳ cho Việt Nam vào tháng 8-1945, nhưng chưa kịp thi hành thì VM cướp chính quyền. Nhật cũng trả ba nhượng địa là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cho chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13-7-1945.
Trong hành chánh và trong giáo dục, thi cử, chính phủ Trần Trọng Kim hoàn toàn dùng chữ quốc ngữ làm chuyển ngữ chính thức, không còn dùng chữ Nho hay chữ Pháp. Chính phủ mở trường huấn luyện thanh niên, phát triển phong trào thanh niên trên toàn quốc. Chính phủ cũng đã thành lập ủy ban soạn thảo hiến pháp, ủy ban cải cách văn hóa, giáo dục, xã hội, nhưng rất tiếc chưa hoạt động được thì chính phủ sụp đổ.
Chính phủ Trần Trọng Kim không thành lập quân đội để tự bảo vệ, nên khi quân đội Nhật bại trận thì chính phủ Trần Trọng Kim sụp đổ. Điểm đặc biệt là chính phủ Trần Trọng Kim được Nhật hậu thuẫn, nhưng từ khi thành lập cho đến khi giải tán, chính phủ nầy hoạt động độc lập và không lệ thuộc người Nhật.
Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ hoạt động từ tháng 4-1945 đến tháng 8-1945, nhưng đã đặt nền móng căn bản cho nền hành chánh tương lai Việt Nam, chương trình giáo dục của Hoàng Xuân Hãn rất hữu ích cho sự phát triển văn hóa Việt Nam và chính phủ Trần Trọng Kim đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết nạn đói ở Bắc Việt Nam. (Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto: Nxb. Non Nước 2014).
(Toronto, Canada)
Trần Gia Phụng
|
No comments:
Post a Comment