Saturday, July 30, 2016
ĐẾ QUỐC MỚI TRUNG CỘNG, KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CỦA DÂN TỘC VIỆT
Kính thưa quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo,
Kính thưa quý vị lãnh đạo các hội đoàn đoàn thể
Kinh thưa quý vị nhân sĩ, quý cơ quan truyền thông báo chí
Lời nói đầu tiên của chúng tôi là xin chân thành cám ơn toàn thể quý vị đã bớt chút thì giờ quý báu đến đây tham dự buổi giới thiệu tác phẩm "Đế Quốc Mới Trung Cộng, Kẻ Thù Truyền Kiếp của Dân Tộc" ngày hôm nay. Sự hiện diện của quý vị ngày hôm nay đã chứng tỏ nỗi ưu tư, niềm thao thức đối quê hương điêu linh thống khổ trước “Đại Họa Của Dân Tộc Việt Nam” mà người nhạc sĩ trẻ tuổi yêu nước Việt Khang đã thổn thức trong bài Huyết Lệ Ca “Việt Nam Tôi Đâu? Việt Nam Còn hay Đã mất???”.
Thưa quý vị, thật bất hạnh cho cả một dân tộc là trong lịch sử Việt chưa bao giờ có một triều đại nào cam tâm Hại dân Bán nước như như những tên Thái Thú xác Việt hồn Tàu trong bộ chính trị của tập đoàn Việt gian CS. Đất nước Việt Nam đang đứng trước một đại họa mất nước do tập đoàn Việt gian CS khởi đi từ tên Tàu Chệt Hồ Chí Minh, Hán hóa dân tộc chúng ta để ngày hôm nay, chúng ta đang đứng trước một thực tế phũ phàng là Việt Nam của chúng ta không còn nữa mà đã và đang mất dần vào tay đế quốc mới Trung Cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam.
Khi Nguyễn Tất Thành giả danh Nguyễn Ái Quốc chết năm 1932, Mao Trạch Đông đã thực hiện một mưu kế thâm độc hết sức tinh vi xảo quyệt để cho tên thiếu tá Hồ Quang tình báo sở Hoa Nam nhập vai Hồ chí Minh để hán hóa dân tộc VN. Đây là một âm mưu quỷ quyệt của Hán tộc đã sử dụng thời Quốc gia Nam Việt. Thật vậy, khi Triệu Vũ Đế mất, Triệu Văn Vương húy là Hồ là con của Trọng Thủy, cháu đích tôn của Triệu Vũ Đế lên nối ngôi thì Nam Việt đã suy yếu. Hán vương sai Trang Trợ sang Nam Việt chiêu dụ Triệu Văn Vương vào chầu. Triệu Văn Vương sai Thái tử Anh Tề sang làm con tin và cáo bệnh tìm cớ thoái thác. Thất bại trong âm mưu chiêu dụ Văn vương vào chầu, Hán triều cho thực hiện một ý đồ thâm độc tinh vi và xảo quyệt hơn. Trong thời gian Anh Tề ở Trường An, Hán triều đã tạo điều kiện để dàn xếp mối mai một cuộc hôn nhân dị chủng với Cù Thị người Hán là người tình của Thiếu Quý để khi người con sinh ra sẽ có dòng máu Hán trong người, chưa kể có thể Ai Vương là con của Thiếu Quý và Cù Thị. Sự việc diễn ra theo đúng kế hoạch đã vạch sẳn. Năm Mậu Thìn 113 TDL, Triệu Minh Vương mất, con là Thái Tử Hưng lên ngôi nối ngôi lấy hiệu là Triệu Ai Vương. Vừa lên ngôi, Ai Vương tôn mẹ là Cù Thị người Hán lên làm Thái hậu. Hán triều vội cử An Quốc Thiếu Quý sang sứ Nam Việt. Thiếu Quý trước là người tình của Cù Thị được Hán triều cử sang Nam Việt với mục đích chiêu dụ Ai Vương đem Nam Việt sát nhập vào Hán theo chế độ nội thuộc nghĩa là nội chư hầu, cứ ba năm vào chầu một lần, bãi bỏ các cửa quan ải ngoài biên giới.
Khi Nguyễn Tất Thành giả danh Nguyễn Ái Quốc về Trung Quốc hoạt động thì vợ chồng Chu Ân Lai đã đứng ra mai mối, làm chủ hôn cho cho Nguyễn Ái Quốc lấy vợ Tàu là Tăng Tuyết Minh. Ý đồ thâm độc này được thực hiện để sau này, nếu có con sẽ có nửa dòng máu Hán trong người kế nghiệp Nguyễn Ái Quốc. Lê Khả Phiêu với đứa con rơi ở bắc Kinh cũng không ngoài những ý đồ đen tối, thủ đoạn quỷ quyệt của nhà cầm quyền Bắc Kinh...
TẠI SAO “ĐẠI HÁN” XƯA VÀ ĐẾ QUỐC TRUNG CỘNG” NGÀY NAY CHỦ TRƯƠNG XÂM LƯỢC TIÊU DIỆT DÂN TỘC VIỆT BẰNG MỌI GIÁ
Thưa toàn thể quý vị,
Hán tộc là một tộc người du mục, bản chất hiếu chiến hiếu sát với tư tưởng chủ đạo “Độc tôn Đại Hán”, nên ngay từ triều Thương, sau khi đánh đuổi nhà Hạ của tộc Việt đã chọn tên nước là Trung Quốc. Trung Quốc là nước trung tâm của thiên hạ, triều đình Trung Quốc là “Thiên Triều” trong khi các nước khác là chư hầu, vua Trung Quốc là Thiên tử. Sau khi đã xâm chiếm nhà Hạ và các nước Bách Việt, hết Thương rồi đến Chu đã xâm thực văn hóa, tiếp thu tinh hoa của nền văn minh Việt rồi cải biến thành văn hóa Hán. Chính cái mặc cảm tự ti của một tộc người du mục, sau đánh thắng các nước văn minh hơn mình nên Hán tộc tự cho mình là văn minh còn tất cả các nước là man di mọi rợ nên Hán sử viết tên của những dân tộc xung quanh họ kèm theo bộ khuyển (chó), bộ trãi (côn trùng), bộ mã (ngựa).
Các sử gia triều Thương, Chu của Hán tộc với quan niệm: “Đại nhất thống” tự nhận là tộc người ưu việt, trung tâm của thế giới là cái rốn của nhân loại. Chủ trương trước sau như một của Đại Hán bành trướng là “Huệ thử Trung Quốc, dĩ tuy Tứ phương” nghĩa là: “lấy ân huệ Trung Quốc để yên định bốn phương.”. Đó là chủ trương bành trướng Đại Hán “Dĩ Hạ biến Di” nghĩa là lấy cái cao thượng, tao nhã của Đại Hán để cải hoá man di mọi rợ! (sic)
Sau khi tiếp nhận văn hóa Việt, chữ viết của các dân tộc Việt rồi lợi dụng Hán tự là văn tự duy nhất, các sử gia Trung Quốc từ cổ đại đến nay đã xuyên tạc, bóp méo sự thật, sửa đổi cho phù hợp với sử quan Đại Hán, đánh đổ lòng tự hào dân tộc của các dân tộc bị trị để dễ bề thống trị và đồng hoá. Đó là chủ trương nhất quán, là bản chất bành trướng thâm độc của họ xuyên suốt dòng lịch sử từ xưa tới nay. Chính vì thế, lịch sử Trung Quốc là lịch sử của những cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng, thôn tính và đồng hóa các dân tộc khác đặc biệt là Việt Nam.
Lịch sử Trung Quốc khởi từ triều Thương với lãnh thổ chỉ rộng bằng 2 tỉnh ngày nay mà bây giờ đã trở thành một đế quốc rộng lớn thống trị các dân tộc Mông, Mãn, Tạng và Hồi. Nhà Trung Hoa học Terrien De LaCouperie trong tác phẩm “China Before the Chinese” đã nhận định rằng đế quốc Trung Hoa đã thôn tính và đồng hóa 21 sắc dân khác.
Vấn đề đặt ra là tại sao triều đại nào, thời kỳ nào nhà cầm quyền Bắc Kinh cũng chủ trương tiêu diệt Việt Nam bằng mọi giá. Nếu muốn mở đường xuống phương Nam tại sao trong lịch sử không bao giờ tấn công các nước Lào, Cambodia, Thái Lan, Miến điện để tiến xuống vùng biển Đông Nam Á mà triều đại nào, thời đại nào cũng xâm lược Việt Nam. Ngay sau khi thành lập nhà nước CHNDTH, Mao Trạch Đông đã tuyên bố: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã bị phe Đế Quốc chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Cách Mạng 1911, như Ngoại Mông, Triều Tiên, An Nam (Việt Nam), Hồng Kông, Macao cùng những đảo tại Thái Bình Dương như Sakhalin, Đài Loan, Bành Hồ sẽ phải được giao hoàn cho Trung Quốc". “Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …”.
Chính Mao Trạch Đông đã nói là "Việt Nam tuy là đồng chí nhưng cũng là kẻ thù của chúng ta…”. Và thưa quý vị, đó là một trong những lý do Mao Trạch Đông đã chỉ thị cho Cộng sản VN phát động cuộc chiến Việt Nam vừa qua. Một cuộc chiến tương tàn khiến gần 10 triệu người Việt Nam hy sinh một cách oan uổng, một cuộc chiến vô nghĩa nhằm tiêu hao sinh lực dân tộc Việt để mở đường cho TC tiến xuống phương Nam.
Các nhà Việt Nam học khi nghiên cứu lịch sử Việt Nam vẫn đặt ra 2 câu hỏi mà vẫn chưa được lý giải thỏa đáng, đó là tại sao triều đại nào của Trung Quốc cũng chủ trương xâm chiếm lãnh thổ và tiêu diệt Việt tộc bằng mọi giá và yếu tố nào đã giúp dân tộc Việt Nam tạo nên kỳ tích là sau gần 1 ngàn năm bị thống trị mà dân tộc Việt vẫn vùng lên giành lại được độc lập dân tộc? Chính hoàn cảnh lịch sử đã hun đúc lòng yêu nước thương nòi của con dân đất Việt, mỗi người Việt Nam sinh ra đã có một gene di truyền yêu nước thương nòi. Lãnh thổ Việt Nam hiện tại tập trung đồng bào thuộc các chi tộc Việt đã tạo thành một sức mạnh tổng lực để vùng lên quật khởi giành lại nền độc lập dân tộc sau gần 1 ngàn năm nô lệ vào đúng thời điểm Hán tộc phương Bắc suy yếu với tài trí siêu việt của anh hùng dân tộc Khúc Thừa Dụ.
Lý do mà Tàu Hán xưa và Tàu cộng ngày nay xem Việt Nam là kẻ thù không đội trời chung vì:
- Cái gọi là văn minh Trung Quốc" chính là văn minh của người Việt Cổ. Sau khi xâm chiếm các nước Bách Việt cư trú trên phần lãnh thổ TQ bây giờ, Tàu Hán đã lấy văn hóa Việt, văn minh Việt sửa đổi thành văn minh Hán. Ngày nay sự thật lịch sử đã phục hồi Cuộc hội thảo quốc tế gồm các nhà Trung Hoa học toàn thế giới, kể cả Trung Quốc và Đài loan về nguồn gốc của nền văn minh Trung Hoa tại đại học Berkeley năm 1978 đã xác định tộc người Di Việt sống trên lãnh thổ Trung Quốc bây giờ trước khi Hán tộc du mục từ Tây Bắc tràn xuống và cái gọi là văn minh Trung Quốc bây giờ là sự tiếp thu của văn hóa Việt, văn minh Việt.
- Kết quả mới nhất về phân tích mã di truyền DNA đã xác định là hơn một nửa dân số người Trung Quốc hiện nay là người gốc Việt cổ. Công trình nghiên cứu khoa học thuyết phục nhất đã chứng minh tất cả người TQ sống ở Đông Bắc và miền Nam TQ bây giờ có chung một cấu trúc di truyền mã Genome DNA với Việt Nam và hoàn toàn khác với Hán tộc du mục phương Bắc.
Cuộc tranh chấp giữa Đài Loan và Bắc Kinh không thuần túy là vấn đề chính trị mà còn tiềm ẩn vấn đề chủng tộc. Ngay từ thời TT Trần Thủy Biển và bây giờ tân TT Đài Loan bà Thái Anh Văn không chấp nhận 1 nước TQ. Ngay cả thủ lĩnh cuộc đấu tranh dân chủ ở Hồng Kông Hoàng Chí Phong cũng tuyên bố là chỉ có 17% dân số Hồng Ko6ng nhận là người TQ, còn lại 83% chúng tôi là người Hồng Kông, người Mân Việt Min Yue. Vì thế TC lo sơ một khi hồn dân tộc sống lại, họ sẽ cùng các dân tộc Mông Mãn Tạng Hồi cùng đứng lên thì TQ sẽ tiêu vong. Đây là một nguy cơ tiềm tàng đe dọa sự sống còn của Trung Quốc nên triều đại nào, giới cầm quyền nào cũng chủ trương xâm lược tiêu diệt dân tộc chúng ta.
Friday, July 15, 2016
Tuyên bố báo chí: Phán
quyết của Tòa án trong việc phân xử Philippines-Trung Quốc
Trích nguyên văn từ fb của Đại sứ Ted Osius tại Hà Nội
Phán quyết ngày hôm nay của Tòa án trong việc phân xử
Philippines-Trung Quốc là một đóng góp quan trọng vào mục tiêu chung về một
giải pháp hòa bình cho các tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa. Chúng tôi vẫn đang
nghiên cứu các quyết định và không có bình luận về các giá trị của vụ
kiện, nhưng một số nguyên tắc quan trọng đã được thể
hiện rõ ràng ngay từ đầu vụ kiện này và có giá trị tái khẳng định.
Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ pháp quyền. Chúng tôi hỗ trợ các nỗ lực
để giải quyết tranh chấp lãnh thổ và hàng hải ở Biển Nam
trung Hoa một cách hòa bình, trong đó có thông qua trọng tài.
Khi gia nhập Công ước Luật Biển, các bên nhất trí về quá trình
giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước nhằm giải quyết các tranh chấp.
Trong phán quyết của ngày hôm nay và trong phán quyết của Tòa án từ tháng 10
năm ngoái, Tòa án nhất trí phán quyết rằng Philippines đã hành động trong phạm vi
quyền hạn của mình theo Công ước về khởi xướng sự phân xử này.
Theo quy định trong Công ước, quyết định của Toà án là
cuối cùng và ràng buộc về mặt pháp lý đối với cả Trung Quốc và
Philippines. Hoa Kỳ bày tỏ hy vọng và kỳ vọng rằng cả hai bên sẽ tuân thủ các
nghĩa vụ của mình.
Sau quyết định quan trọng này, chúng tôi kêu gọi tất cả các bên
tuyên bố chủ quyền tránh các tuyên bố hoặc hành động khiêu khích. Quyết
định này có thể và nên là một cơ hội mới để làm mới những
nỗ lực nhằm giải quyết các tranh chấp hàng hải một cách hòa bình.
Chúng tôi khuyến khích các bên tuyên bố chủ quyền làm rõ
yêu sách trên biển của họ phù hợp với luật pháp quốc tế – như được
phản ánh trong Công ước Luật biển – và làm việc với nhau để quản lý và giải
quyết tranh chấp của họ. Những bước đi như vậy có thể cung cấp cơ sở cho
các cuộc thảo luận nhằm thu hẹp phạm vi địa lý của các tranh
chấp hàng hải của họ, thiết lập các tiêu chuẩn về hành xử trong
các khu vực tranh chấp , và cuối cùng là giải quyết tranh chấp tiềm ẩn của
họ mà không có sự ép buộc hoặc sử dụng hoặc đe dọa vũ lực./
*Chú thích: Trong bản Thông cáo Báo chí dùng từ: "... ở
Biển Nam Trung Hoa" là không chính xác mà phải nói là "... ở các vùng
biển phía nam Trung Hoa".
Đại sứ Ted Osius: “Mỹ đang tham vấn Việt Nam về quyết định của
PCA“
Mai Anh
15:06 14/07/2016
BizLIVE - “Về quyết định của tòa trọng tài, theo quan điểm
của Mỹ, nó ràng buộc về mặt pháp lý với cả Trung Quốc và Philippines. Vì vậy,
chúng tôi mong họ thực hiện đúng nghĩa vụ được quy định trong
UNCLOS", Đại sứ Mỹ tại Việt Nam – Ted Osius khẳng định.
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam – Ted Osius. Ảnh: Zing
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam – Ted Osius nhắc lại phán
quyết của Tòa trọng tài thường trực quốc tế (PCA) bác bỏ cơ sở pháp lý của
đường 9 đoạn và kết luận không cấu trúc địa lý nào ở Trường Sa là đảo
mà chỉ là đá nên không được hưởng lãnh hải 12 hải lý. (1)
Phán quyết cũng nêu ra một số trường hợp Trung Quốc vi phạm
quyền của Philippines, vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS) về môi trường biển. Trung Quốc làm phức tạp tình hình tranh chấp thông
qua việc bồi lấp, cải tạo đảo ở Trường Sa.
“Về quyết định của tòa trọng tài, theo quan điểm của Mỹ, nó ràng
buộc về mặt pháp lý với cả Trung Quốc và Philippines. Vì vậy, chúng tôi mong họ
thực hiện đúng nghĩa vụ được quy định trong UNCLOS cũng như có các biện pháp
kiềm chế, tránh làm gia tăng căng thẳng”, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam trả lời Zing,
bổ sung thêm rằng đây là cơ hội để Trung Quốc giải quyết tranh chấp trên biển
hòa bình.
“Mỹ đang tham vấn các bên liên quan, Việt Nam, ASEAN và các nước
khu vực và thế giới về quyết định của PCA.
Mỹ tiếp tục duy trì hiện diện ở Biển Đông như quá khứ và tương
lai.
Trong tuần này, tôi có cơ hội thăm tàu sân bay hoạt động trong
khu vực và chúng tôi sẽ tiếp tục hiện diện ở đây”, ông cho hay.
Trước lo ngại Trung Quốc phản ứng bằng cách lập Vùng nhận dạng
phòng không (ADIZ) hoặc đẩy nhanh các hoạt động xây lấn đảo, như tuyên bố của
nước này khi công bố Sách Trắng hôm 13/7, ông Ted Osius nhắc lại rằng khi Bắc
Kinh tuyên bố thiết lập ADIZ ở Biển Đông, Mỹ đã không thừa nhận và tiếp tục
thực hiện các hoạt động tự do hàng hải và hàng không.
“Nếu Bắc Kinh tiếp tục tuyên bố lập ADIZ ở Biển Đông, chúng tôi
sẽ tiếp tục không công nhận”, ông nhấn mạnh.
MAI ANH
(1) Chú thích: Theo Điều 13 và 121 của Công ước, các cấu trúc nổi trên mặt nước
vào lúc thủy triều lên cao sẽ ít nhất được hưởng lãnh hải 12 hải lý (ví dụ như
5 đảo Song Tử Tây, Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn và Trường Sa lớn).
Toàn văn Thông cáo báo chí của Tòa trọng tài
Thứ tư, 13/07/2016, 10:23 (GMT+7)
BBT xin gửi tới các bạn độc giả toàn văn Thông cáo báo chí
của Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước của Liên hợp
quốc về Luật Biển năm 1982 trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc.
Tòa Trọng tài Liên Hợp Quốc. (Nguồn: Getty)
La Hay, 12 tháng 7 năm 2016
Toà Trọng tài ban hành phán quyết
Phán quyết được Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, Công
ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (sau đây gọi là “Công ước”) trong vụ kiện
giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi là
‘Philippines’ và ‘Trung Quốc’) hoàn toàn nhất trí thông qua và ban hành.
Vụ kiện trọng tài này liên quan đến vai trò của các quyền lịch sử và nguồn xác định quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông, quy chế của một số cấu trúc cụ thể và các vùng biển của các cấu trúc này, và tính hợp pháp của các hành vi của Trung Quốc mà Philippines cho là vi phạm Công ước. Phù hợp các giới hạn của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước, Toà Trọng tài đã nhấn mạnh Toà không phán quyết các vấn đề nào liên quan đến chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đất liền và không tiến hành phân định bất kỳ một ranh giới trên biển nào giữa các bên của vụ kiện.
Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố ‘nước này không chấp nhận cũng
như không tham gia vào tiến trình trọng tài do Philippines đơn phương khởi
xướng’. Tuy nhiên, Phụ lục VII quy định rằng “việc vắng mặt của một bên hoặc
việc một bên không thực hiện việc biện hộ không tạo nên bất kỳ rào cản nào cho
tiến trình tố tụng”. Phụ lục VII cũng quy định rằng trong trường hợp một bên
không tham gia vào tiến trình tố tụng, Toà Trọng tài “phải chắc chắn rằng Toà
có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp cũng như nội dung kiện phải được chứng
minh đầy đủ cả về mặt pháp lý và thực tế”. Theo đó, trong suốt quá trình tố
tụng, Toà Trọng tài đã thực hiện các biện pháp cần thiết để kiểm tra tính xác
thực của các đệ trình do Philippines đưa ra, bao gồm cả việc yêu cầu
Philippines cung cấp thêm các lập luận, đặt ra các câu hỏi cho Philippines
trước và trong hai phiên tranh tụng, chỉ định các chuyên gia độc lập có nhiệm
vụ báo cáo Toà về các vấn đề kỹ thuật và thu thập các bằng chứng về mặt
lịch sử liên quan đến các cấu trúc tại Biển Đông và chuyển
các bằng chứng này để bên bình luận.
Trung Quốc, thông qua Bản Tuyên bố lập trường ban hành tháng 12
năm 2014 cũng như các các tuyên bố chính thức khác, cũng tuyên bố rõ ràng rằng
theo quan điểm của nước này, Toà Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ
kiện. Điều 288 của Công ước quy định: ‘Trong trường hợp xảy ra tranh chấp về
việc liệu một toà hay một cơ quan trọng tài có hay không có thẩm quyền, vấn đề
này sẽ do chính toà hay cơ quan trọng tài đó quyết định’. Theo đó, Toà Trọng
tài đã tổ chức một phiên tranh tụng về thẩm quyền và khả năng thụ lý vụ việc
vào tháng 7 năm 2015 và ban hành một Phán quyết về thẩm quyền và khả năng thụ
lý vụ việc vào ngày 29 tháng 10 năm 2015, quyết định về một số vấn đề liên quan
đến thẩm quyền và sẽ để lại một số vấn đề đê tiếp tục xem xét. Toà Trọng tài,
sau đó, tiếp tục triệu tập và tổ chức một phiên tranh tụng về các vấn đề nội
dung của vụ kiện từ ngày 24 đến 30 tháng 11 năm 2015.
Phán quyết được ban hành hôm nay giải quyết các vấn đề về thẩm
quyền mà Toà chưa quyết định trong Phán quyết về thẩm quyền và khả năng thụ lý
vụ việc cũng như giải quyết các vấn đề về nội dung thực chất đối với các yêu
cầu mà Philippines nằm trong thẩm quyền của Toà.
Theo quy định tại Điều 296 của Công ước và Điều 11 của Phụ lục
VII Phán quyết này có tính ràng buộc pháp lý và có tính chung thẩm.
Quyền lịch sử và Đường 9 đoạn:
Toà Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa
các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại
Biển Đông.
Về mặt nội dung thực chất, Toà kết luận rằng Công ước quy định
một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng biển, và việc bảo vệ các quyền
tồn tại trước Công ước liên quan đến tài nguyên đã được xem xét, nhưng chúng
không được thông qua và quy định tại Công ước. Theo đó, Tòa kết luận rằng trong
phạm viquyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các
vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định
vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước.
Toà cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy,Toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.
Quy chế của các cấu trúc:
Tiếp theo, Toà Trọng tài xem xét đến quyền hưởng các vùng biển
và quy chế của các cấu trúc.
Trước tiên, Toà tiến hành đánh giá liệu một số bãi do
Trung Quốc yêu sách có nổi khi thuỷ triều lên đỉnh hay không.
Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ
tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi các cấu trúc
chìm khi thuỷ triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy. Toà nhận thấy rằng
các bãi này đã bị làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng và Toà cũng
nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự
nhiên của chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu
trúc. Sau đó, Toà tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu
trúc do Trung Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý
không.
Theo Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý
và thềm lục địa nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở
và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.
Toà kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng
khách quan của các cấu trúc khi chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể
duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt động kinh tế mà
không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có
tính chất khai thác.
Toà cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên
các cấu trúc là phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh
khả năng của các cấu trúc. Toà cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử
có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử được
sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài hoạt động khai
thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản.
Toà kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không
phải là sự định cư của một cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động
kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính khai thác.
Theo đó, Toà kết luận rằng không một cấu trúc nào tại
Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Toà cũng quyết
định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như
một thực thể thống nhất.
Trên cơ sở kết luận không một cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu
sách có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế, Toà nhận thấy Tòa có thể không
cần phải phân định ranh giới biển mà vẫn có thể tuyên bố rằng một số
vùng biển nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì không bị chồng
lấn với bất cứ quyền hưởng vùng biển nào mà Trung Quốc có thể có.
Tính hợp pháp của các hoạt động của Trung Quốc: Tiếp theo, Toà xem xét tới tính hợp pháp của
các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông.
Nhận thấy rằng các vùng nhất định nằm trong vùng đặc quyền kinh
tế của Philippines, Toà cho rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của
Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này bằng việc (a) can thiệp
vào hoạt động đánh cá và thăm dò dầu khí của Philippines, (b) xây dựng đảo nhân
tạo và (c) không ngăn chặn ngư dân Trung Quốc đánh bắt ở khu vực này. Toà cũng
khẳng định rằng ngư dân từ Philippines (cũng như ngư dân từ Trung Quốc) đã có
quyền đánh cá truyền thống ở Bãi Scarborough và rằng Trung Quốc đã ngăn chặn
các quyền này bằng cách hạn chế việc tiếp cận khu vực này. Toà cũng khẳng định
rằng các tàu chấp pháp của Trung Quốc gây ra một rủi ro va chạm nghiêm trọng
một cách bất hợp pháp khi họ đã trực tiếp cản trở các tàu của Philippines.
Gây hại cho môi trường biển: Toà xem xét ảnh hưởng với môi trường biển của các hoạt động
bồi đắp vàxây dựng nhân tạo trên 7 cấu trúc của Quần đảo Trường Sa
gần đây của Trung Quốc, và nhận thấy rằng Trung Quốc đã gây hại nghiêm trọng
với môi trường của các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ
sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe
doạ và bị huỷ diệt. Toà cũng cho rằng nhà chức trách Trung Quốc đã nhận thức
được việc ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt các loài rùa biển, san hô và trai
khổng lồ quý hiếm trên diện rộng ở Biển Đông (bằng các biện pháp gây ra tổn hại
nghiêm trọng với môi trường rặng san hô) và đã không thực hiện các nghĩa vụ của
nước này trong việc ngăn chặn và chấm dứt các hoạt động này.
Làm trầm trọng thêm tranh chấp: Cuối cùng, Toà xem xét liệu các hoạt động của Trung Quốc kể từ
khi Toà bắt đầu xem xét vụ việc có làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các bên
hay không.
Toà nhận thấy rằng Toà thiếu thẩm quyền để xem xét tác động của
vụ đối đầu giữa tàu hải quân của Philippines và tàu hải quân và chấp pháp của
Trung Quốc ở Bãi cạn Second Thomas, cho rằng tranh chấp này liên
quan đến các hoạt động quân sự và do vậy, nằm ngoài cơ chế giải quyết tranh
chấp bắt buộc.
Tuy nhiên, Toà nhận thấy rằng việc bồi đắp và xây dựng
đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa
vụ của quốc gia thành viên Công ước trong quá trình giải quyết tranh
chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể sửa chữa
được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc
quyền kinh tế của Philippines, và phá huỷ các bằng chứng về điều kiện
tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa các
Bên.
Toà được thành lập vào ngày 21 tháng 6 năm 2013, phù hợp với chu
trình được quy định trong Phụ lục VII Công ước Luật biển, để đưa ra phán quyết
về tranh chấp được đệ trình bởi Philippines.
Toà bao gồm Thẩm phán người Ghana Thomas A. Mensah, Thẩm phán
người Pháp Jean-Pierre Cot, Thẩm phán người Phần Lan Stanislaw Pawlak, Giáo sư
người Hà Lan Alfred H.A. Soons và Thẩm phán người Đức Rüdiger Wolfrum. Thẩm
phán Thomas A. Mensah là Chủ tịch Tòa Trọng tài. Toà Trọng tài thường trực là
cơ quan đăng ký trong quá trình xét xử.
Thông tin thêm về vụ việc có thể được tìm thấy ở trang www.pcacases.com/web/view/7, bao gồm Phán quyết về Thẩm quyền, các Quy tắc về thủ tục, các Thông cáo báo chí trước đây, biên bản phiên toà và ảnh. Trình tự thủ tục, đệ trình bởi Philippines. và các báo của của chuyên gia của Toà sẽ được công bố trong một thời gian thích hợp, cũng như bản dịch không chính thức bằng tiếng Trung của Phán quyết của Toà.
TÓM TẮT PHÁN QUYẾT CỦA TÒA TRỌNG TÀI VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ VÀ VỀ
NỘI DUNG CÁC ĐỆ TRÌNH CỦA PHILIPPINES
1. Thông tin cơ bản về Vụ kiện Trọng tài
Vụ kiện Trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc liên quan đến đơn kiện của Philippines đề nghị phán quyết về bốn vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông.
Thứ nhất, Philippines
muốn Tòa phán quyết về nguồn luật quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trên
Biển Đông và hiệu lực của Công ước Liên hợp Quốc về Luật Biển (Công ước) đối
với yêu sách về quyền lịch sử bên trong cái gọi là “đường chín đoạn” của Trung
Quốc.
Thứ hai, Philippines
muốn Tòa phán quyết về liệu một số cấu trúc mà cả Trung Quốc và Philippines
cùng yêu sách được xác định chính xác là đảo, đảo đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm
hay bãi chìm theo Công ước. Quy chế pháp lý của các cấu trúc này theo Công ước
quyết định vùng biển mà những cấu trúc đó có thể có được.
Thứ ba, Philippines
muốn Tòa phán quyết liệu một số hành động của Trung Quốc ở Biển Đông có vi phạm
Công ước không khi can thiệp vào việc Philippines thực thi các quyền chủ quyền
và quyền tự do phù hợp với Công ước, cũng như Trung Quốc đã làm tổn hại
đến môi trường biển thông qua các hoạt động đánh cá và xây
dựng.
Cuối cùng, Philippines
muốn Tòa phán quyết về một số hoạt động do Trung Quốc tiến hành, cụ thể
là việc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa kể
từ khi vụ kiện bắt đầu đến nay đã làm mở rộng và làm phức tạp thêm tranh chấp.
Chính phủ Trung Quốc theo quan điểm không chấp nhận và không
tham gia vào trình tự tố tụng của vụ kiện. Trung Quốc đã nhắc lại quan điểm
trong các công hàm ngoại giao, trong “Tài liệu lập trường của Chính phủ Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa về vấn đề thẩm quyền trong Vụ kiện Trọng tài Biển Đông
do Cộng hòa Philippines khởi xướng” đề ngày 7/12/2014 (“Tài liệu lập trường
của Trung Quốc”), trong thư của Đại sứ Trung Quốc tại Vương quốc Hà Lan gửi
các thành viên của Tòa Trọng tài và trong rất nhiều tuyên bố công khai. Chính
phủ Trung Quốc đã bày tỏ rõ quan điểm rằng các tuyên bố và tài liệu đó “không
thể được giải thích là Trung Quốc tham gia vào quá trình tố tụng của vụ kiện
dưới bất kỳ hình thức nào”.
Trong Công ước có hai điều khoản xư lý tình huống một bên phản
đối thẩm quyền của Tòa Trọng tài và từ chối tham gia vào trình tự tố tụng:
Điều 288 của Công ước quy định: “Trong trường hợp có sự tranh
cãi về vấn đề một tòa án hoặc trọng tài có thẩm quyền hay không, thì vấn đề này
do tòa án đó quyết định.”
Điều 9 Phụ lục VII, Công ước quy định: “Khi một trong các bên trong vụ tranh chấp không ra Tòa trọng tài hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Tòa tiếp tục trình tự tố tụng và ra phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán quyết, Tòa Trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những Tòa có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý.”
Điều 9 Phụ lục VII, Công ước quy định: “Khi một trong các bên trong vụ tranh chấp không ra Tòa trọng tài hoặc không trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Tòa tiếp tục trình tự tố tụng và ra phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán quyết, Tòa Trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những Tòa có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý.”
Trong suốt quá trình tố tụng, Tòa Trọng tài đã tiến hành một số
biện pháp nhằm hoàn thành nghĩa vụ về việc phải tự mình bảo đảm rằng Tòa có
thẩm quyền và rằng nội dung kiện của Philippines là “có cơ sở về mặt thực tế và
pháp lý”. Về vấn đề thẩm quyền, Tòa đã quyết định xem các trao đổi không chính
thức của Trung Quốc tương đương với ý kiến phản đối thẩm quyền, Tòa đã tổ chức
Tranh tụng riêng về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý diễn ra từ ngày 7-13/7/2015,
đặt câu hỏi cho Philippines cả trước và trong phiên tòa về thẩm quyền, bao gồm
các vấn đề có thể chưa được nêu trong các trao đổi không chính thức của Trung
Quốc và Tòa đã ra Phán quyết về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý vào ngày
29/10/2015 (“Phán quyết về thẩm quyền”), theo đó quyết định một số đệ trình mà
Tòa có thẩm quyền và các đệ trình khác được hoãn lại để xem xét chung với các
vấn đề về nội dung thực chất.
Về vấn đề nội dung, Tòa đã tìm cách kiểm tra độ xác thực của các
đệ trình của Philippines bằng cách yêu cầu nước này nộp thêm văn ban bổ sung,
Tòa đã tổ chức phiên tranh tụng về riêng nội dung thực chất diễn ra từ ngày
24-30/11/2015, đặt câu hỏi cho Philippines về những nôi dung khởi kiện cả trước
và trong phiên tranh tụng, chỉ định các chuyên gia độc lập để báo cáo cho Tòa
về các vấn đề kỹ thuật, và Toà đã thu thập các ghi chép lịch sử, dữ liệu điều tra
thủy văn về Biển Đông trong kho lưu trữ của Văn phòng Thủy văn Anh Quốc, Thư
viện Quốc gia Pháp, và Trung tâm lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp cũng như cung
cấp các tài liệu này, cùng các tài liệu liên quan đến từ các nguồn mở cho các
bên trong vụ kiện để các bên đưa ra bình luận.
2. Lập trường của các bên
Philippines đã đưa ra 15 đệ trình trong vụ kiện, yêu cầu Tòa xác
định:
Phạm vi các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng trên Biển Đông, cũng giống như của Philippines, không thể vượt ra ngoài những gì được Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (“UNCLOS” hay “Công ước”) cho phép;
Các yêu sách của Trung Quốc về các quyền chủ quyền và quyền tài phán, và đối với “các quyền lịch sử”, đối với các vùng biển trên Biển Đông nằm bên trong gọi là “đường chín đoạn” là trái với Công ước và không có hiệu lực pháp lý trong chừng mực mà chúng vượt quá các giới hạn địa lý và thực chất của các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng theo UNCLOS.
Bãi Scarborough không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa
riêng;
Bãi Vành Khăn (Mischief Reef), bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và đá Xu-bi (Subi Reef) đều là các bãi cạn nửa nổi, nửa chìm và chúng không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, đồng thời không phải là các cấu trúc có thể bị thụ đắc thông qua chiếm đóng hay thông qua cách khác.
Bãi Vành Khăn (Mischief Reef), bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và đá Xu-bi (Subi Reef) đều là các bãi cạn nửa nổi, nửa chìm và chúng không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, đồng thời không phải là các cấu trúc có thể bị thụ đắc thông qua chiếm đóng hay thông qua cách khác.
Bãi Vành Khăn (Mischief Reef) và bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.
Đá Ga-ven (Gaven Reef) và đá Ken-nan (McKennan Reef) (bao gồm cả
đá Huy-gơ (Hughes Reef)) là
các bãi cạn nửa nổi nửa chìm, không thể có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay
thềm lục địa, nhưng ngấn nước thấp nhất của chúng có thể được dùng để lần
lượt xác định đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của đảo Nam Yết (Namyit)
và Sinh Tồn (Sin Cowe).
Bãi Gạc Ma (Johnson Reef), đá Châu Viên (Cuarteron Reef) và đá
Chữ Thập (Fiery Cross Reef) không
thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Trung Quốc đã can thiệp một cách bất hợp pháp tới việc Philippines
hưởng và thực thi các quyền chủ quyền của mình liên quan đến các nguồn tài
nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Philippines.
Trung Quốc đã hành động một cách bất hợp pháp khi không ngăn cản
công dân và tàu thuyền của mình khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền kinh tế của Philippines.
Trung Quốc đã ngăn cản một cách bất hợp pháp việc ngư dân Philippines theo đuổi sinh kế bằng việc can thiệp vào các hoạt động đánh bắt cá truyền thống tại bãi Scarborough.
Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ theo Công ước trong việc bảo vệ
và bảo tồn môi trường biển ở bãi Scarborough và bãi Cỏ Mây;
Việc Trung Quốc chiếm đóng và tiến hành các hoạt động xây dựng
tại bãi Vành Khăn:
(a) vi phạm các điều khoản của Công ước liên quan đến các đảo nhân
tạo, thiết bị và công trình.
(b) vi phạm nghĩa vụ của Trung Quốc trong việc bảo vệ và bảo tồn
môi trường biển theo Công ước và
(c) cấu thành những hành vi bất hợp pháp trong việc cố tình chiếm đoạt theo cách vi phạm Công ước.
Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ theo Công ước trong việc sử
dụng các tàu chấp pháp một cách nguy hiểm, gây ra nguy cơ nghiêm trọng về va
chạm với tàu Philippines hoạt động xung quanh bãi Scarborough.
Từ khi vụ kiện trọng tài này được bắt đầu vào tháng 1/2013,
Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm và mở rộng các tranh chấp thông qua các việc
sau:
(a) can thiệp vào các quyền hàng hải của Philippines trong vùng
nước tại và tiếp giáp bãi Cỏ Mây.
(b) ngăn cản việc luân chuyển và tiếp tế cho lực lượng của Philippines
đồn trú tại bãi Cỏ Mây và
(c) đe dọa đến sức khỏe và đời sống của lực lượng của Philippines
đồn trú tại bãi Cỏ Mây.
Trung Quốc phải chấm
dứt có thêm các yêu sách và hành động phi pháp.
Liên quan đến thẩm quyền của Tòa, Philippines đã đề nghị Tòa
tuyên bố rằng các yêu sách của Philippines là “hoàn toàn nằm trong thẩm quyền
và khả năng thụ lý của Tòa”.
Trung Quốc không chấp nhận và không tham gia vào vụ kiện này,
nhưng tuyên bố lập trường của mình là “Tòa trọng tài không có thẩm quyền đối
với vụ kiện này”. Trong Tài liệu lập trường của mình, Trung Quốc đã đưa ra các
lập luận sau:
– Bản chất của vụ kiện là chủ quyền lãnh thổ đối với
một số cấu trúc biển ở Biển Đông, vấn đề này nằm ngoài phạm vi của Công ước và
không liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước;
– Trung Quốc và Philippines đã thống nhất, thông
qua các thỏa thuận song phương và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển
Đông, giải quyết các tranh chấp liên quan thông qua thương lượng. Việc
Philippines đơn phương khơi kiện tòa trọng tài này là vi phạm nghĩa vụ theo quy
định của luật pháp quốc tế;
– Ngay cả khi giả định rằng nội dung cua vụ
kiện liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước, các nội dung này là một phần
không tách rời của quá trình phân định biển giữa hai quốc gia, như vậy sẽ rơi
vào trường hợp tuyên bố năm 2006 của Trung Quốc phù hợp với Công ước, tong đó
loại trừ các tranh chấp về phân định biển khỏi cơ chế trọng tài bắt buộc hay
các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc khác;
Mặc dù Trung Quốc không đưa ra các tuyên bố chính thức tương ứng
với phần lớn các đệ trình của Philippines, trong quá trình tố tụng Tòa đã cố
gắng xác định lập trường của Trung Quốc trên cơ sở các tuyên bố công khai
và thư tín ngoại giao.
3. Phán quyết của Tòa về Phạm vi thẩm quyền
Tòa đã xem xét vấn đề phạm vi thẩm quyền xét xử các yêu sách của
Philippines ở cả Phán quyết về Thẩm quyền, ở chừng mực mà các vấn đề về thẩm
quyền có thể được xác định như một vấn đề ban đầu, và trong Phán quyết ngày 12
tháng 7 năm 2016, ở chừng mực mà các vấn đề về thẩm quyền đan xen với các nội
dung thực chất của các yêu sách của Philippines. Phán quyết ngày 12/7/2016 của
Tòa cũng lồng ghép và tái khẳng định các quyết định về thẩm quyền được đưa ra
trong Phán quyết về Thẩm quyền.
Để có bức tranh hoàn chỉnh, các quyết định của Tòa về thẩm quyền
trong cả hai phán quyết được tóm tắt chung ở đây.
a. Các vấn đề ban đầu
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét một số những vấn
đề ban đầu liên quan đến thẩm quyền của Tòa. Tòa nhận thấy rằng cả Philippines
và Trung Quốc đều là thành viên Công ước và Công ước không cho phép một Quốc
gia tự loại trừ mình khỏi cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong Công
ước. Tòa cho rằng việc Trung Quốc không tham gia vào vụ kiện không
tước bỏ thẩm quyền của Tòa và Tòa đã được thành lập đúng với các điều
khoản của Phụ lục VII của Công ước, trong đó bao gồm một thủ tục thành lập tòa
ngay cả trong trường hợp một bên vắng mặt. Cuối cùng, Tòa đã không công nhận
lập luận được nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc và cho rằng chỉ
riêng việc đơn phương khởi kiện không thể được coi là sự lạm dụng đối với
Công ước.
b. Sự tồn tại của một Tranh chấp Liên quan đến Giải thích
và Áp dụng Công ước
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét liệu tranh chấp
của các Bên có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước hay không,
đây là một điều kiện để sử dụng các cơ chế của Công ước.
Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung
Quốc rằng tranh chấp của các Bên thực ra là về chủ quyền lãnh thổ và do đó
không phải là một vấn đề liên quan đến Công ước. Tòa chấp nhận rằng tồn tại một
tranh chấp giữa các Bên liên quan đến chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông,
nhưng Tòa cho rằng các vấn đề được Philippines đệ trình để giải quyết
bằng trọng tài lại không liên quan đến chủ quyền. Tòa cho
rằng không cần thiết phải ngầm quyết định về chủ quyền để có thể xem xét
các Đệ trình của Philippines và rằng việc xem xét đó sẽ không hỗ trợ
cho các yêu sách chủ quyền của bất kỳ Bên nào đối với các đảo ở Biển
Đông.
Tòa cũng bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung
Quốc rằng tranh chấp của các Bên thực tế là về phân định ranh giới biển và do
đó bị loại khỏi cơ chế giải quyết tranh chấp bởi Điều 298 của Công ước và bởi
một tuyên bố của Trung Quốc vào ngày 25/8/2006 theo Điều khoản này.
Tòa nhận thấy rằng một tranh chấp về việc liệu một Quốc
gia có quyền đối với một vùng biển hay không là một vấn đề hoàn toàn khác biệt
so với vấn đề phân định các vùng biển ở một khu vực mà các vùng biển này chồng
lấn.Tòa nhận thấy rằng các quyền được hưởng vùng biển, cùng với nhiều vấn
đề khác, thường được xem xét trong việc phân định ranh giới, nhưng cũng có thể
phát sinh trong những bối cảnh khác.Tòa quyết định là từ đó không thể
kết luận rằng một tranh chấp đối với từng vấn đề trên có thể coi làtranh
chấp về phân định ranh giới.
Cuối cùng, Tòa quyết định rằng các Đệ trình của Philippines đều
phản ánh một tranh chấp liên quan đến Công ước. Với quyết định đó, Tòa đã nhấn
mạnh rằng (a) tranh chấp liên quan đến sự tương tác giữa Công ước và các quyền
khác (bao gồm bất kỳ “quyền lịch sử” nào của Trung Quốc) là một tranh chấp
liên quan đến Công ước và (b) do Trung Quốc không nêu rõ quan điểm của mình, sự
tồn tại của một tranh chấp có thể được hàm ý từ hành vi của một Quốc gia hoặc
từ sự im lặng, và đây là một vấn đề cần phải được xem xét một cách khách quan.
c. Sự tham gia của Bên thứ ba không thể thiếu
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét việc các Quốc gia
khác cũng có yêu sách đối với các đảo ở Biển Đông không tham gia vào vụ
kiện trọng tài có cản trở thẩm quyền của Tòa hay không.
Tòa thấy rằng quyền của các Quốc gia khác sẽ không cấu thành
“nội dung chính của phán quyết” – tiêu chuẩn để bên thứ ba có thể được coi là
không thể thiếu.
Tòa cũng lưu ý thêm rằng vào tháng 12/2014, Việt Nam đã
đệ trình một tuyên bố lên Tòa, trong đó Việt Nam tuyên bố rằng “không
nghi ngờ gì Tòa có thẩm quyền trong vụ kiện này”.
Tòa cũng lưu ý rằng Việt Nam, Malaysia và Indonesia đã
dự các phiên tòa về thẩm quyền với tư cách quan sát viên, và không Quốc gia nào
nêu lên lập luận rằng sự tham gia của mình là không thể thiếu.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa lưu ý rằng Tòa đã nhận
được công hàm của Malaysia ngày 23/6/2016, trong đó nêu lại
những yêu sách của Malaysia ở Biển Đông.
Tòa đã so sánh những phán quyết về nội dung thực chất của Đệ
trình của Philippines với các quyền mà Malaysia yêu sách và tái khẳng định
quyết định của mình rằng Malaysia không phải là một bên không thể thiếu và rằng
lợi ích của Malaysia ở Biển Đông không ngăn cản việc Tòa xem xét các Đệ trình
của Philippines.
d. Điều kiện tiên quyết đối với thẩm quyền
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét khả năng áp dụng
Điều 281 và 282 của Công ước, là những điều khoản có thể ngăn một Quốc gia sử
dụng các cơ chế theo Công ước nếu những quốc gia đó đã đồng ý về việc sư
dụng biện pháp khác để giải quyết tranh chấp.
Tòa đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung
Quốc rằng Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông năm 2002 ngăn
Philippines khởi kiện trọng tài.
Tòa cho rằng Tuyên bố trên là một thỏa thuận
chính trị và không ràng buộc về pháp lý, không định ra một cơ chế giải
quyết tranh chấp một cách ràng buộc, không loại trừ các biện pháp giải quyết
tranh chấp khác, và do đó không hạn chế thẩm quyền của Tòa theo Điều
281 hay 282.
Tòa cũng đã xem xét Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á, Công ước về Đa dạng sinh học và một loạt các tuyên bố chung của Philippines và Trung Quốc về việc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán và kết luận rằng những văn kiện này đều không cấu thành một thỏa thuận có tác dụng ngăn Philippines khởi kiện ra trọng tài.
Tòa cũng cho rằng các Bên đã trao đổi quan điểm của mình
liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp, theo như yêu cầu của Điều 283 của
Công ước, trước khi Philippines khởi kiện trọng tài. Tòa kết luận rằng điều
kiện này đã được đáp ứng theo hồ sơ về trao đổi ngoại giao giữa Philippines và
Trung Quốc, trong đó Philippines đã thể hiện quan điểm muốn lựa chọn đàm phán
đa phương, có sự tham gia của cả những Quốc gia khác xung quanh Biển Đông,
trong khi Trung Quốc một mực quyết định rằng chỉ có các cuộc đàm phán
song phương mới được xem xét.
e. Ngoại lệ và giới hạn của thẩm quyền
Trong phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu Đệ trình
của Philippines liên quan đến các quyền lịch sử của Trung Quốc và ‘đường chín
đoạn’ có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền các tranh chấp liên
quan đến ‘danh nghĩa lịch sử’ theo Điều 298 của Công ước hay không.
Tòa đã rà soát nghĩa của cụm từ ‘danh nghĩa lịch sử’ trong luật
biển và quyết định là thuật ngữ này dẫn chiếu đến những yêu sách về
chủ quyền lịch sử đối với các vịnh và vùng biển gần bờ.
Sau khi xem xét các yêu sách và hành vi của Trung Quốc ở
Biển Đông, Tòa kết luận rằng Trung Quốc đã yêu sách quyền lịch sử
đối với các tài nguyên trong ‘đường chín đoạn’, nhưng không yêu sách danh
nghĩa lịch sử đối với các vùng biển ở Biển Đông. Do đó, Tòa kết luận
rằng Tòa có thẩm quyền để xem xét các nội dung kiện của Philippines liên quan
đến quyền lịch sử và về vấn đề ‘đường chín đoạn’ giữa Philippines và Trung
Quốc.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa cũng xem xét liệu các Đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới biển.
Trong Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã kết luận rằng các Đệ
trình của Philippines không liên quan đến việc phân định ranh giới, nhưng
cũng lưu ý rằng một vài điểm trong Đệ trình của Philippines phụ thuộc vào một
số khu vực nhất định có cấu thành một phần vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines không.
Tòa quyết định rằng Tòa chỉ có thể xem xét những đệ
trình đó nếu Trung Quốc không có khả năng được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế
chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và đã hoãn đưa ra quyết
định cuối cùng về thẩm quyền.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét các bằng chứng
về các bãi và đảo mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông và kết luận rằng không một
đảo, bãi nào có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Do Trung Quốc không có khả năng được
hưởng vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines ở quần đảo Trường Sa, Tòa quyết định là các
đệ trình của Philippines không phụ thuộc vào việc phân định trước ranh giới.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa cũng xem xét liệu Đệ trình
của Philippines có bị ảnh hưởng việc loại trừ khỏi thẩm
quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến hoạt động của cơ
quan thi hành pháp luật ở vùng đặc quyền kinh tế hay không.
Tòa nhắc lại rằng ngoại lệ ở Điều 298 chỉ có thể áp dụng nếu Đệ
trình của Philippines liên quan đến hoạt động của cơ quan thi hành pháp luật ở
vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Tuy nhiên, do Đệ trình của
Philippines liên quan đến các sự kiện diễn ra trong chính vùng đặc
quyền kinh tế của Philippines hoặc ở vùng lãnh hải, Tòa đã kết luận
rằng Điều 298 không gây cản trở đối với thẩm quyền của mình.
Cuối cùng, trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu
các đệ trình của Philippines có bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm
quyền theo Điều 298 những tranh chấp liên quan đến hoạt động
quân sự hay không.
Tòa quyết định là sự đụng độ giữa lực
lượng lính thủy đánh bộ của Philippines ở Bãi Cỏ Mây và hải
quân, lực lượng thực thi pháp luật của Trung Quốc đã cấu thành các hoạt
động quân sự và kết luận rằng Tòa không có thẩm quyền đối với
Đệ trình số 14(a)-(c).
Tòa cũng xem xét liệu các hoạt động cải tạo và xây dựng
đảo nhân tạo ở bảy cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa có cấu thành hoạt động
quân sự hay không, nhưng lưu ý rằng Trung Quốc đã liên tục nhấn mạnh bản
chất phi quân sự của những hoạt động của mình và đã tuyên bố ở cấp cao nhất
rằng Trung Quốc sẽ không quân sự hóa sự hiện diện của mình trên Trường Sa.
Tòa đã quyết định rằng Tòa sẽ không coi các hoạt động trên có
tính quân sự khi mà bản thân Trung Quốc đã liên tục khẳng định điều ngược lại.
Do đó, Tòa kết luận rằng Điều 298 không cản trở thẩm quyền của Tòa.
4. Phán quyết của Tòa liên quan đến Nội dung khởi kiện thực chất của Philippines
a. ‘Đường chín đoạn’ và Yêu sách Quyền lịch sử của Trung Quốc
trên các vùng biển thuộc Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét đến giá trị của
‘đường chín đoạn’ của Trung Quốc và liệu Trung Quốc có quyền lịch sử đối với
các tài nguyên ở Biển Đông bên ngoài giới hạn của các vùng biển mà nước này
được hưởng theo Công ước hay không.
Tòa đã xem xét lịch sử của Công ước và những điều khoản của nó
liên quan đến các vùng biển và kết luận rằng mục đích của Công ước là phân bổ
một cách toàn diện các quyền của các Quốc gia đối với các vùng biển.
Tòa nhận thấy rằng câu hỏi về những quyền tồn tại từ trước đối
với tài nguyên (đặc biệt là đối với tài nguyên cá) đã được xem
xét cẩn thận trong các cuộc đàm phán về sự hình thành vùng đặc quyền kinh tế và
rằng một số Quốc gia đã có mong muốn bảo tồn các quyền đánh cá lịch sử ở vùng
biên mới này.
Tuy nhiên, quan điểm này đã bị bác bỏ và văn bản cuối cùng của
Công ước chỉ cho các Quốc gia khác một quyền hạn chế trong việc tiếp cận về
đánh cá ở vùng đặc quyền kinh tế (trong trường hợp Quốc gia ven biển không thể
khai thác hết lượng cá cho phép) mà không cho các quốc gia khác quyền gì đối
với dầu khí hay tài nguyên khoáng sản.
Tòa nhận thấy rằng yêu sách về quyền lịch sử của Trung
Quốc đối với các tài nguyên là không phù hợp với sự phân bổ chi tiết về quyền
và vùng biển của Công ước và kết luận rằng, nếu Trung Quốc có
quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông, những quyền đó đã
bị xóa bỏ bởi việc Công ước có hiệu lực ở chừng mực mà chúng không phù hợp với
hệ thống các vùng biển của Công ước.
Tòa cũng xem xét hồ sơ lịch sử để xác định liệu Trung Quốc có
thật là có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở Biển Đông trước khi Công ước có
hiệu lực hay không. Tòa lưu ý rằng có chứng cứ cho thấy người đi biển
và ngư dân của Trung Quốc, cũng như của các nước khác, trong lịch sử đã sử
dụng các đảo ở Biển Đông, mặc dù Tòa nhấn mạnh rằng Tòa
không có thẩm quyền để xác định chủ quyền đối với những đảo đó.
Tuy nhiên, Tòa quyết định là trước khi có Công ước, các
vùng biển ở Biển Đông bên ngoài vùng lãnh hải về pháp lý đều là một phần của
vùng biển quốc tế, tại đó tàu thuyền của bất kỳ Quốc gia nào đều có
thể qua lại và đánh cá một cách tự do.
Vì vậy, Tòa đã kết luận rằng việc Trung Quốc qua lại và đánh cá
trong lịch sử ở vùng biển của Biển Đông đãthể hiện các quyền tự do
trên biển cả, thay vì một quyền lịch sử, và rằng không có
chứng cứ nào cho thấy rằng trong lịch sử Trung Quốc đã một mình thực hiện việc
kiểm soát các vùng biển ở Biển Đông hay ngăn cản các quốc gia khác khai thác những
tài nguyên của mình.
Do đó, Tòa kết luận rằng, giữa Philippines và Trung Quốc, không có căn cứ pháp lý nào để Trung Quốc yêu sách các quyền lịch sử đối với tài nguyên, bên ngoài những quyền quy định trong Công ước, tại các vùng biển nằm bên trong ‘đường chín đoạn’.
b. Quy chế của các cấu trúc tại Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem
xét quy chế của các cấu trúc tại Biển Đông và các quyền đối với vùng biển mà
Trung Quốc có thể đòi hỏi theo Công ước.
Trước hết, Tòa Trọng tài thực hiện đánh giá kỹ thuật về việc liệu một số bãi san hô mà Trung Quốc đòi hỏi có nổi trên mặt nước khi thủy triều lên hay không. Theo Điều 13 và 121 của Công ước, các cấu trúc nổi trên mặt nước vào lúc thủy triều lên cao sẽ ít nhất được hưởng lãnh hải 12 hải lý, trong khi những cấu trúc bị chìm khi thủy triều lên sẽ không có quyền có các vùng biển.
Tòa Trọng tài ghi nhận rằng nhiều rặng san hô tại Biển Đông đã bị thay đổi nặng nề do việc cải tạo và xây dựng đảo gần đây và nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của nó.
Tòa Trọng tài đã chỉ định một chuyên gia thủy văn học để hỗ trợ
Tòa trong việc đánh giá các bằng chứng kỹ thuật của Philippines và dựa chủ yếu
vào các tài liệu lưu trữ và các đánh giá thủy văn trước đây để đánh giá các cấu
trúc này.
Tòa Trọng tài nhất trí với Philippines rằng bãi Scarborough, Gạc
Ma, Châu Viên và Chữ Thập là các cấu trúc nổi và Xu Bi, Huy-gơ, Vành Khăn và Cỏ
Mây là cấu trúc chìm trong điều kiện tự nhiên.
Tuy nhiên, Tòa Trọng tài không đồng ý với Philippines về quy chế
của Ga Ven (phía Bắc) và Ken Nan và kết luận
rằng cả hai đều là cấu trúc nổi.
Tòa Trọng tài tiếp theo đã xem xét liệu có cấu trúc nào mà Trung
Quốc yêu sách có thể tạo ra các vùng biển ngoài 12 hải lý hay không.
Theo Điều 121 của Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh
tế 200 hải lý và có thềm lục địa, nhưng“các đảo đá không thích hợp cho con
người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền
kinh tế hoặc thềm lục địa”.
Tòa Trọng tài thấy rằng quy định này liên hệ chặt chẽ với việc
mở rộng quyền tài phán của Quốc gia ven biển với việc hình thành vùng đặc quyền
kinh tế và nhằm để ngăn ngừa việc các cấu trúc không lớn có thể tạo ra các vùng
biển lớn, mà điều này xâm phạm vào vùng biển của các lãnh thổ có người ở hoặc
vùng biển quốc tế và vùng đáy biển vốn là di sản chung của nhân loại.
Tòa Trọng tài giải thích Điều 121 và kết luận rằng các quyền có vùng biển của một cấu trúc phụ thuộc vào (a) năng lực khách quan của cấu trúc; (b) trong điều kiện tự nhiên, nó có thể duy trì hoặc (c) một cộng đồng dân cư ổn định hoặc (d) hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào tài nguyên bên ngoài và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác.
Tòa Trọng tài thấy rằng nhiều cấu trúc tại Trường Sa hiện đang được một hoặc nhiều quốc gia ven biển kiểm soát và họ đã xây dựng các cấu trúc và duy trì nhân lực tại chỗ.
Tòa Trọng tài thấy rằng sự hiện diện thời nay phụ thuộc vào các
nguồn lực và hỗ trợ bên ngoài và thấy rằngnhiều cấu trúc đã bị biến đổi để
nâng cao khả năng sinh sống của con người, kể cả thông qua cải tạo đảo
và xây dựng các cơ sở hạ tầng như các nhà máy xử lý nước mặn.
Tòa Trọng tài kết luận rằng việc hiện diện của các nhân viên
công quyền trên nhiều cấu trúc không chứng minh được khả năng của các cấu trúc
này, trong điều kiện tự nhiên, để duy trì cộng đồng cư dân ổn định và cho rằng
các bằng chứng lịch sử về việc định cư hoặc đời sống kinh tế có ý nghĩa hơn đối
với năng lực khách quan của các cấu trúc.
Qua đánh giá hồ sơ lịch sử, Tòa Trọng tài thấy rằng các
đảo Trường Sa trong lịch sử từng được các nhóm nhỏ ngư dân từ Trung
Quốc và các nước khác sử dụng, và một số công ty khai thác phân chim và đánh cá
của Nhật đã có hoạt động tại đây vào những năm 1920 và
1930. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc sử dụng tạm thời các cấu trúc của
ngư dân không dẫn đến việc cư ngụ của một cộng đồng ổn định và tất cả
các hoạt động kinh tế trong lịch sử đều chỉ có tính chất khai thác.
Theo đó, Tòa Trọng tài kết luận rằng tất các cấu trúc
nổi tại Trường Sa (bao gồm, ví dụ, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử
Đông, Song Tử Tây) đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc
quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.
Tòa Trọng tài cũng kết luận rằng Công ước không quy định
việc một nhóm các đảo như quần đảo Trường Sa sẽ có các vùng biển với tư cách là
một thực thể thống nhất.
c. Các hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông
Trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem
xét tính hợp pháp theo Công ước đối với nhiều hành động của Trung Quốc tại Biển
Đông.
Sau khi kết luận Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Bãi Cỏ Rong là
cấu trúc chìm, tạo thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của Philippines và không chồng lấn với bất kỳ vùng biển nào
Trung Quốc có thể có, Tòa Trọng tài kết luận rằng Công ước đã rõ ràng
trong việc trao quyền chủ quyền cho Philippines đối với các khu vực biển trong
vùng đặc quyền kinh tế của nước này.
Tòa Trọng tài xác định, trên thực tế, Trung Quốc đã (a) can
thiệp vào việc thăm dò dầu khí của Philippines tạiBãi Cỏ Rong; (b) chủ ý
cấm các tàu Philippines đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines
và (c) bảo vệ cho và không ngăn ngừa các ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong
vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây,
và (d) xây dựng các công trình và đảo nhân tạo tại Vành Khăn mà không được sự
đồng ý của Philippines. Do vậy Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc
đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối với vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa của nước này.
Tiếp theo Tòa Trọng tài xem xét quyền đánh cá truyền
thống tại bãi Scarborough và kết luận rằng ngư dân từ
Philippines, cũng như Trung Quốc và các nước khác, đã đánh cá tại
bãi Scarborough từ lâu và có quyền đánh cá truyền thống tại khu vực này. Do
bãi cạn Scarborough nổi trên mặt nước lúc thủy triều lên, cấu trúc này
có quyền có lãnh hải, vùng nước xung quanh cấu trúc này không tạo thành vùng
đặc quyền kinh tế và quyền đánh cá truyền thống không bị mất đi do Công ước.
Dù Tòa Trọng tài nhấn mạnh rằng Tòa không quyết định về
vấn đề chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, Tòa xác định rằng Trung
Quốc đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống của ngư dân
Philippines khi ngăn chặn tiếp cận bãi cạn Scarborough sau tháng 5 năm 2012.
Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thấy rằng Tòa cũng sẽ có kết luận tương tự đối với
quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc nếu Philippines có hành động
ngăn cản việc đánh cá của công dân Trung Quốc tại bãi Scarborough.
Tòa Trọng tài cũng xem xét tác động của các hành vi của Trung
Quốc đối với môi trường biển. Để làm việc này, Tòa Trọng tài đã có
sự trợ giúp của 3 chuyên gia độc lập về sinh học của rặng san hô được chỉ định
để đánh giá các chứng cứ khoa học có được và các báo cáo của chuyên gia của
Philippines.
Tòa Trọng tài xác định rằng việc Trung Quốc cải tạo đất
quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo gần đây tại bảy cấu trúc tại Trường Sa đã
gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hô và Trung Quốc đã
vi phạm nghĩa vụ của mình theo
Điều 192 và 194 của Công ước trong việc bảo tồn và bảo vệ môi
trường biển đối với các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sinh sống
của các loài động vật bị đe dọa, sắp cạn kiệt. Đồng thời Tòa Trọng tài cũng xác
định rằng ngư dân Trung Quốc đã thực hiện việc khai thác động vật bị đe dọa như
rùa biển, san hô và trai khổng lồ ở quy mô lớn tại Biển Đông, sử dụng các biện
pháp gây hủy hoại nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hộ. Tòa Trọng tài
xác định rằng chính quyền Trung Quốc đã nhận thức được các hành vi này và không
thực hiện nghĩa vụ cẩn trọng theo Công ước để ngăn chặn.
Cuối cùng, Tòa Trọng Tài đã xem xét tính hợp pháp của các
hành vi của tàu chấp pháp Trung Quốc tại bãi Scarborough trong hai
tình huống vào tháng 4 và 5 năm 2012 khi các tàu Trung Quốc đã tìm cách cản trở
tàu Philippines tiếp cận hoặc tiến vào bãi Scarborough. Để làm việc này, Tòa
Trọng tài đã được một chuyên gia độc lập về an toàn hàng hải được chỉ định để
hỗ trợ trong việc xem xét các báo cáo bằng văn bản do các sĩ quan tàu
Philippines cung cấp và các chứng cứ chuyên gia về an toàn hàng hải do
Philippines cung cấp. Tòa Trọng tài xác định rằng các tàu chấp pháp của Trung
Quốc đã liên tiếp tiếp cận tàu Philippines với tốc độ cao và cố gắng cắt đầu
các tàu này ở khoảng cách gần, tạo ra nguy cơ đâm va cao và nguy hiểm cho tàu
và người của Philippines. Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm
nghĩa vụ theo Công ước về Quy định Quốc tế để Ngăn ngừa Va chạm trên Biển 1972
và Điều 94 của Công ước liên quan đến an toàn hàng hải.
d. Làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các Bên
Trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem
xét liệu các hoạt động cải tạo đất quy mô lớn gần đây và xây dựng các
đảo nhân tạo của Trung Quốc tại 7 cấu trúc tại Trường Sa từ khi bắt
đầu thủ tục trọng tài có làm gia tăng tranh chấp giữa các Bên.
Tòa Trọng tài nhắc lại rằng các bên tham gia vào cơ chế giải
quyết tranh chấp có nghĩa vụ kiềm chế việc làm trầm trọng thêm hoặc mở rộng một
tranh chấp hoặc các tranh chấp về các vấn đề đang được thụ lý.
Tòa Trọng tài thấy rằng Trung Quốc đã (a) xây dựng một
đảo nhân tạo lớn tại Vành Khăn, một cấu trúc lúc chìm lúc nổi nằm trong vùng
đặc quyền kinh tế của Philippines; (b) gây ra hủy hoại lâu dài, không thể
phục hồi đối với hệ sinh thái rặng san hộ và (c) phá hủy lâu dài các chứng cứ
về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc này. Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung
Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ về kiềm chế làm trầm trọng thêm và kéo dài tranh
chấp giữa các Bên trong khi chờ quá trình xét xử.
e. Hành vi tương lai của các Bên
Cuối cùng, Tòa Trọng tài xem xét đề nghị của Philippines về việc
đưa ra tuyên bố rằng, từ nay về sau, Trung Quốc cần tuân thủ các quyền và quyền
tự do của Philippines và tuân thủ các nghĩa vụ của nước này theo Công ước.
Về vấn đề này, Tòa Trọng tài thấy rằng cả Philippines và
Trung Quốc đều đã nhiều lần thừa nhận Công ước và các nghĩa vụ chung
về thiện chí trong xác định và điều chỉnh các hành vi của mình. Tòa Trọng tài
xét rằng cốt lõi của tranh chấp trong vụ kiện này không nằm ở ý định của Trung
Quốc hay Philippines trong việc xâm phạm quyền lợi pháp lý của bên kia, mà
chính là do có sự hiểu khác nhau cơ bản về các quyền của nước mình theo Công
ước đối với các vùng nước thuộc Biển Đông.
Tòa Trọng tài nhắc lại rằng trong luật pháp quốc tế có nguyên
tắc cơ bản là “không thiện chí” không thể tự suy diễn và thấy rằng Điều 11 của
Phụ lục VII đã quy định “phán quyết … sẽ được các bên trong tranh chấp
tuân thủ”. Vì vậy, Tòa Trọng tài thấy không cần thiết phải đưa ra
tuyên bố nào nữa.
(Theo Thế Giới &
Việt Nam)
Subscribe to:
Posts (Atom)