Saturday, December 1, 2012

Kỷ niệm Ngày Quốc Tế Nhân Quyền

Kỷ niệm Ngày Quốc Tế Nhân Quyền
10 tháng 12

Nhìn về đời sống người dân

ở Việt Nam ngày nay.

 Nguyễn Mỹ Hào

 

     Có thể nói cho đến nay thì hai chữ “Nhân Quyền” không còn bị nhiều người với ý niệm mơ hồ,  trừu tượng mà là một giá trị phổ quát, một nguyện vọng khát khao, một ý thức thiết thực của đời sống con người. Cho nên đã được phổ cập đến hầu hết mọi người trên thế giới, ngay cả tại những nước độc tài chuyên chính cộng sản hay chuyên chế quân phiệt. Thực vậy, như lịch sử và trào lưu tiến bộ của nhân loại trong hơn nửa thế kỷ qua cho thấy Nhân Quyền đã giúp mang lại Chủ quyền Quốc gia trở về tay người dân một dân tộc một cách trọn vẹn, đồng thời còn bảo đảm cho mỗi cá nhân của dân tộc ấy đạt được đời sống hạnh phúc trên cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần.

       Để có khái niệm về Ngày Quốc tế Nhân quyền 10 tháng 12. Người viết xin lần lượt một cách khái  quát về lịch sử  “ BảnTuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền” như sau :

                  A-/ Lịch sử

       1-) Cách nay 3 thế kỷ, một số nước tân tiến đã có Bản Tuyên ngôn Nhân quyền riêng trong phạm vi quốc gia của họ. Như tại Anh quốc với Bộ Luật Nhân quyền (Bill of Rights) năm 1689, Hoa kỳ với bản Tuyên ngôn Độc lập 4/7/1776, và Pháp quốc với Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Quyền Công dân được viết ra sau cuộc Cách mạng Tư sản, phá ngục Bastilles năm 1789. Và trong cuốn La Contrat Social, triết gia J.J Rousseau, người Pháp cho là một lý lẽ đương nhiên, ấy là: “ … giữa Quốc gia và Người dân có một trách vụ liên đới …”  Từ đó những chánh quyền đương nhiệm đã không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để trốn tránh trách nhiệm thi hành và bảo vệ Nhân quyền cho toàn dân. Vì Nhân quyền là quyền của dân, không phải của quốc gia. Trong một nước dân chủ tự do Nhân quyền không đối chọi với chủ quyền quốc gia.Trái lại Nhân quyền luôn đi đôi với một thể chế dân chủ chân chính chính danh.

       2-) Bối cảnh lịch sử thế giới tiền bán thế kỷ XX cho thấy sau 2 cuộc đại chiến, nhất là sau đệ nhị thế  chiến kết thúc. Đành rằng phe trục bị đánh bại, nhưng với bao tang thương, đổ nát …  Trước thảm cảnh tang tóc, điêu tàn như vậy, nhân loại đã phát triển ra được 2 Tuyên cáo, mà các luật gia, chính trị gia thế giới mệnh danh là “Tuyên cáo Đức tin” (Declaration of faith), ấy là Bản Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948. Với mục đích thiết yếu là đánh thức lương tâm nhân loại, cho nên đứng về phía những người có lương tri đạo đức và văn minh thì hai văn kiện ấy, nhất là Bản TNQTNQ hay là vấn đề Nhân quyền đã trở thành một vấn đề toàn cầu, không còn chỉ dành riêng nội bộ từng quốc gia. Nghĩa là Nhân quyền đã được Quốc tế hóa.

        3-) Năm 1946 tại thành phố Cựu Kim Sơn (San Francisco) Hoa Kỳ, những nhân vật sau đây được bầu vào tiểu ban soạn thảo :

        - Bà Eleanor Roosevelt, phu nhân tổng thống Mỹ Franklin Delano Roosevelt.

        - Luật sư René Cassin, chủ tịch tham chính viện Pháp quốc.

        - Triết gia Charles Malik, gốc người Liban.

        - Nhà ngoại giao Peng Chung Cheng Trung hoa Dân quốc.

        - Luật gia Canada John Humphrey của đại học McGill.

        Việc soạn thảo Bản TNQTNQ kéo dài từ 1947 đến 1948. Trong lúc soạn thảo, tiểu ban đã gặp phải nhiều thắc mắc căn bản khá phức tạp như về triết thuyết, xã hội, pháp lý và chính trị … nhưng với tinh thần và thái độ cương quyết của những người trong tiểu ban, đã vượt qua được mọi trở ngại. Và ngày 10 tháng 12 năm 1948 Bản TNQTNQ được Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc khi ấy có 58 nước chấp thuận và công bố tại Paris - Nghị quyết 217 A (III), có 8 nước không bỏ phiếu, như là Ả Rập Xê Út (Saudi Arabia), Nam Phi và mấy nước thuộc khối Sô viết Cộng sản.

       Phải thán phục rằng trong lúc thế giới tan hoang như vậy, tất cả đang cùng phải dồn mọi nỗ lực tái thiết cho: Đức quốc, Nước Ý, Âu châu kể cả nước Pháp, Á châu và Nhật Bản … mà vẫn sáng tạo ra được Bản TNQTNQ quả là một kỳ công, quan trọng và rất thiết thực hơn cả Bản Hiến chương LHQ. Vì qua lịch sử nhân loại đã đến lúc  mọi người ý thức được rằng đời sống con người trên trái đất này không chỉ cần thiết vật chất mà phần tinh thần, sự hòa bình yên ổn làm ăn cũng vô cùng quan yếu, cho nên đã khẳng định ở ngay những lời mở đầu : “…Việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình thế giới …”.

       4-)  Nhân Quyền có trước Dân Quyền và bao quát hơn. Nhân quyền là quyền bẩm sinh, do tạo hóa ban cho, xuất phát từ giá trị nội tại của con người cho nên có tính cách thiêng liêng và không thể tách rời. Không một chánh quyền nào có thể tước đoạt hay phủ nhận; không một cá nhân nào có thể thủ đắc nhân quyền của người khác. Minh bạch nhất là trong một nước, dân quyền của người công dân là đầu phiếu, ứng cử các chức vụ công cử và tham chính … trong khi nhân quyền có tầm bảo vệ rộng lớn hơn, không cho phép nhà cầm quyền trong một nước giam cầm vô cớ, kỳ thị quá đáng, đánh đập dã man không những đối với công dân của mình, mà còn ngay cả các ngoại kiều cư ngụ trên lãnh thổ quốc gia ấy.

     5-) Tuyên ngôn QTNQ 1948 có tính cách phổ quát (universal) không phỏng theo một mẫu mực riêng biệt nào. Những quyền căn bản về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục được liệt kê đầy đủ. Nhưng lại chỉ là một văn kiện tuyên bố ý định (Déclaraion d’ intention) nên không đặt ra các biện pháp chế tài các vi phạm nhân quyền của những chánh quyền độc tài cũng như cộng sản. Tuy nơi điều 56 trong Hiến chương LHQ có đưa ra một cách lỏng lẻo nghĩa vụ của quốc gia hội viên là đề xướng và khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo. Cho nên mãi đến năm 1976 (28 năm)  mới có 2 Công ước Quốc tế có hiệu lực ràng buộc. Nghĩa là có giá trị pháp lý cao hơn hiến pháp và luật pháp quốc gia. Một là Công ước về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, và hai là Công ước về những quyền dân sự và chính trị. Có khác biệt giữa hai công ước về cách thức thi hành. Đó là khi ký công ước về dân quyền và quyền chính trị, các xứ kết ước cam kết tự chế và không vi phạm các quyền này như bắt bớ, giam cầm trái phép, cấm truyền giáo, hành đạo … Trong công ước về quyền xã hội, kinh tế, văn hóa, các nước cam kết hứa thể hiện các chương trình kế hoach do Liên Hiệp Quốc đề ra trong lãnh vực kinh tài và phát triển.

        6-) Hiện nay Liên Hiệp Quốc có trên 190 quốc gia hội viên. Riêng về lãnh vực này có Cao ủy Nhân quyền,  Ủy ban Nhân quyền, Hội đồng Nhân quyền và Bộ luật Nhân quyền, gồm Bản TNQTNQ, 2 Công Ước nói trên cùng với những công ước bổ túc và khai triển như là Công ước chống nạn diệt chủng (1949), Công ước về quy chế tị nạn (1951), Công ước chống kỳ thị chủng tộc (1965) Công ước chống kỳ thị phụ nữ (1979)  Công ước chống tra tấn hành hạ (1984), Công ước về quyền thiếu nhi (1989), và những nghị định thư bổ sung.

      Tóm lại, những quyền về con người rất bao quát và đa dạng, nhưng có thể xếp thành 3 loại như sau :

      1). Quyền liên hệ đến thân thể : nghĩa là quyền sống không bị nô lệ, không bị giam cầm trái pháp, quyền được xét xử công khai và công bình trước tòa án…

      2). Quyền an cư lạc nghiệp : nghĩa là quyền tự do cư trú và đi lại, tự do xuất ngoại, quyền sở hữu, quyền làm việc và thành lập nghiệp đoàn, quyền đình công, quyền được hưởng giáo dục, y tế…

      3). Quyền tự do chính trị và tự do tinh thần : nghĩa là quyền tự do tư tưởng, hội họp, ra báo, lập hội, tham chính …

                 B-/ Nhân quyền ở Việt Nam ngày nay

       1-) Trong khi hầu hết chính quyền các nước trên thế giới đều phải không chỉ tích cực thi hành trách nhiệm là phải bảo vệ nhân quyền cho toàn dân, mà còn có bổn phận phải phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và quyền tự do của con người như bộ luật nhân quyền đòi hỏi.

        2-) Trái lại dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày nay, nhà cầm quyền Cộng sản ngang nhiên miệt thị nhân quyền, ngay cả trước tòa án và còn trắng trợn lấy xâm phạm nhân quyền làm nền tảng cho chính sách cai trị.  Trong khi chính họ :

        3-)  Ý thức được rằng (ngay sau khi cưỡng chiếm được Miền Nam) nếu không sớm xin  hội nhập với cộng đồng thế giới trong chiều hướng toàn cầu hóa, chắc chắn sẽ bị thiệt hại rất nhiều và còn  bị nhân loại bỏ rơi để rồi lạc lõng như những bộ lạc bán khai nơi rừng thẳm Amazon. Được gia nhập là nước hội viên của Liên Hiệp Quốc năm 1977, tháng 9 năm 1982 ký tên công nhận Bản TNQTNQ, thì họ phải biết những điều khoản nội dung bản văn ấy khẳng định việc gì, đòi hỏi người ký, quốc gia ký công nhận phải có nghĩa vụ gì? Chẳng hạn như câu “…  Cũng như việc xây dựng một xã hội trong đó con người phải có đầy đủ mọi quyền tự do, thoát khỏi nỗi sợ hãi và đói nghèo, khổ ải. Thì sự xâm phạm và coi thường nhân quyền, đưa tới những hành động dã man, làm phẫn nộ lương tâm nhân loại. Những hành động bạo tàn, tước đoạt của người dân mọi quyền tự do căn bản cũng như tài sản sở hữu, dồn ép họ vào thế cùng thì người dân buộc phải nổi dậy chống lại bạo quyền và áp bức (chính cộng sản công nhận quy luật “ở đâu có bất công, người dân bị áp bức, ở đó có đấu tranh”).

    Ấy thế mà như mọi người đã thấy, cả thế giới đã thấy, càng ngày CSVN càng xâm phạm một cách trầm trọng nhân quyền của hơn tám  mươi triệu đồng bào trong nước quá dã man, tàn độc hơn cả thời thực dân phong kiến. Cấm đoán, ngăn cản, bắt giam, đánh đập, luôn cả đánh chết (mới nhất là vụ cụ bà HàThị Nhung bị công an đánh chết ở Hà nội), kết án tù đầy những ai dù chỉ lên tiếng về đường lối cai trị và cách đối xử của những con người gọi là chính quyền CSVN với người dân, với đất nước. Chỉ cần lướt qua những vụ án tù lương tâm mà CSVN đã giở trò hề đưa ra xử trong năm 2012 này, chứ không cần nói những năm trước như những vụ bắt vô cớ, giam người rồi đánh chết, bỏ tù … nếu liệt kê ra phải cả hàng ngàn.  Như các nạn nhân Nguyễn Hữu Cầu (trên 35 năm nay vẫn bị giam cầm), Trương Văn Sương bị giam trên 30 năm để rồi chết thảm trong tù, linh mục Nguyễn Văn Lý thả rồi lại giam; hay thả ra nhưng quản chế, công an rình rập ngày đêm …  Như năm nay, với hơn hai chục năm tù cho các nhà báo tự do Điếu Cày Nguyễn Văn Hải,  Cô Tạ Phong Tần, Anh Ba Sàigon, rồi hai nhạc sĩ Việt Khang, Anh Bình, nhà giáo Đinh Đăng Định, sinh viên Phương Uyên và nhiều người nữa … họ đều  có chung  một tư cách là thẳng thắn và dõng  nói lên sự nhận xét, sự suy nghĩ của mình bằng thái độ tự do, ôn hòa đối với mọi việc làm của cái gọi là nhà cầm quyền  của CSVN ngay từ hạ tầng phường khóm, xã ấp lên đến trung ương Hà nội. Chứ có ai trong họ bày tỏ ý kiến qua tác phong cực đoan kích động đâu.

     4-) Lịch sử nhân loại nói chung, lịch sư dân tộc Việt Nam nói riêng, kể ngay từ thời kỳ bán khai, hay bị

ngoại bang đô hộ,  chưa có giai đoạn nào và ở đâu lại có số người dân bị oan ức ( quen gọi là Dân oan)  nhiều đến hàng triệu như ở Việt Nam xã nghĩa ngày nay. Dân nạn này không chỉ mới có từ sau  biến cố 30/4/1975 mà đã có ở miền bắc liền sau năm 1954, đến  nay có người vẫn còn theo đuổi nhưng nhiều người vì  khánh tận, già yếu, mãn phần, đành bỏ cuộc. Những cuộc biểu tình của đủ mọi tầng lớp dân oan đòi công lý (cách nay hơn hai năm, lúc chưa có phong trào biểu tình phản đối Tàu cộng, bảo vệ lãnh hải, hải đảo) khắp từ Nam ra Bắc. Như tại vườn hoa Lý Tự Trọng Hà nội, như vụ bà mẹ blogger Tạ Phong Tần oan ức đến nỗi phải tự thiêu trước trụ sở chánh quyền tỉnh …  cho thấy ý nghĩa pháp lý rằng đó là những chứng minh tội ác vi phạm nhân quyền hàng loạt, có hệ thống và thường trực mà Luật Quốc tế Nhân quyền minh thị nghiêm cấm.

     5-) Không thể nói rằng nhà cầm quyền hay gọi với mỹ tự ngoại giao là Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, lại không biết rằng đã là hội viên Liên Hiệp Quốc, là thành viên Hội đồng Bảo an một nhiệm kỳ và ký tham gia 2 Công ước Quốc tế về Nhân quyền, là đương nhiên họ phải có ít nhất là hai bổn phận quốc tế. Một là nghĩa vụ chính trị và hai là nghĩa vụ pháp lý.

      - Nghĩa vụ chính trị về nhân quyền, bởi đã là quốc gia thành viên của LHQ thì không thể không chia sẻ mối quan tâm đặc biệt về nhân quyền, như lời mở đầu khẳng định ; nghĩa là đòi hỏi các nước hội viên phải phát huy trên toàn cầu những quyền tự do của con người, không chỉ là thành viên trong HĐBA mà chỉ là tư cách  thành viên của LHQ cũng buộc phải góp sức bảo vệ hòa bình trên thế giới, vì rằng nhân quyền được coi là nền móng của tự do, công lý và hòa bình.

     - Song hành với nghĩa vụ chính trị còn có những nghĩa vụ pháp lý quốc tế về nhân quyền. Khi đã là thành viên bằng ký kết hay bằng tham gia về công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, nước nào cũng cam kết rằng trong trường hợp những quyền được nhìn nhận trong công ước chưa được quy định thành văn trong luật pháp quốc nội thì phải trù liệu việc ban hành theo thủ tục lập pháp quốc gia và theo các điều khoản của công ước để các quyền này có hiệu lực. Đồng thời phải bảo đảm cho các nạn nhân quyền được khiếu nại tại các cơ quan tư pháp, hành chánh, lập pháp quốc gia hay tại các cơ quan có thẩm quyền để việc khiếu tố trước tòa án được tôn trọng, hành sử công minh. Nói một cách rõ hơn là các quốc gia thành viên có nghĩa vụ hội nhập vào luật quốc nội những quy phạm của luật quốc tế về nhân quyền.

     6-) Nhưng sự thật hiển nhiên mà những luận điệu tuyên truyền gian dối, tráo trở của bắc bộ phủ xưa rầy vẫn không che giấu được, những tế nhị về ngoại giao cũng không chế hóa được những thủ thuật mà nhà cầm quyền CSVN  chẳng những không thi hành, trái lại còn cố tình vi phạm những điều chính họ đã cam kết với thế giới. Rất nhiều thủ đoạn, như không áp dụng những gì đã ký kết, lại sáng chế ra những quy phạm trắng trợn ngược hẳn lại những điều đã ký. Đã 30 năm nay mà Hà nội vẫn không chịu áp dụng điều 2 (phần II khoản 2 điều 2) của CUQTQDSCT buộc phải hội nhập vào luật quốc nội những đòi hỏi của công ước này. Đã vậy, nơi điều 50 của cái gọi là hiến pháp 1992 lại đặt ra một loại quy phạm quái gở rằng : “…Ở nước CHXHCNVN các quyền con người … được quy định trong hiến pháp và luật…” thay đổi hẳn  ý nghĩa ràng buộc của công ước, với ý đồ xóa bỏ hết những nhân quyền bẩm sinh của người dân, tự cho mình quyền ban phát nhân quyền rồi dùng bạo lực ép buộc mọi người phải chịu nhận một loại nhân quyền “quái thai” do họ đặt ra. Từ đó cho thấy CSVN tự cho mình thayThượng Đế quyết định số phận con người sống dưới quyền cai trị của họ. Hậu quả của phong cách cầm quyền thoái hóa này là lý do chính dẫn đến tình trạng nhân quyền vô cùng tồi tệ hiện nay ở trong nước. Những cuộc bắt bớ, hành hung đối lập ôn hòa, giam cầm, bỏ tù người bất đồng chính kiến, những vụ án tiền chế kệch cỡm, và nhất là làn sóng dân oan dầm mưa dãi nắng, cơ hàn cực khổ, thậm chí mất mạng …ngày đêm, tháng này qua năm khác khắp cả nước đủ nói lên cái bộ mặt thảm hại,  xấu xa đáng hổ thẹn của cái mà người ta gọi chánh phủ Cộng hòa Xã hội Việt Nam. Đúng như lời tuyên bố của cố tổng thống Nga Boris Eltsine, tại lưỡng viện quốc hội Hoa kỳ ngày 17/6/1992 rằng : “… cộng sản không có bộ mặt loài người …” (Communism has no human face). Cho nên Người dân Việt Nam - miền Bắc hơn 60 năm - Miền Nam hay toàn quốc cũng đã gần bốn chục năm nay, hoàn toàn bị tước đoạt hết nhân quyền và sống trong một đất nước mang tiếng là thống nhất và hoa bình : nhưng :   

                I-/ Về vật chất :

    - Đa số người dân tại những vùng thôn quê các tỉnh đồng bằng cũng như nơi các quận huyện, buôn làng mấy tỉnh cao nguyên Trung phần, thượng du Bắc phần, vẫn còn quá nghèo khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Đồng tiền mất giá, vật giá leo thang, khiến người dân ngày càng khốn đốn. Bệnh không tiền chạy chữa, không đủ ăn còn đâu có tiền đóng cho con đi học.

      - Vì không có việc làm, lại ngèo khổ thiếu thốn,  nên số phụ nữ Việt Nam  đã phải dứt tình phó mặc số phận, kể cả mất nhân phẩm hiện thân nguyên bà E Và lúc chưa ăn trái cấm để cho những đàn ông Đại Hàn, Đài Loan, Tầu lục địa tuyển chọn. Số này cho đến nay tuy chưa có thống kê chính thức nhưng chắc chắn đã là cả mấy trăm ngàn người. Và đã xảy ra không ít những vụ oan trái thảm thương.  Ngoài ra như đã thấy, phụ nữ Việt Nam còn được biến thành món hàng trưng bày trong tủ kiến ở Tân Gia Ba, Mã lai để chào khách. Và cũng không ít phải siêu bạt đến những xứ này lén lút mại dâm kiếm sống.

    - Hằng năm chính nhà nước CSVN đều có kế hoạch xuất cảng lao động gồm không hẳn thợ thuyền chuyên ngành mà cả tạp dịch . Nếu tính từ xa xưa con số phải là hàng triệu.

     -  Thực phẩm như gạo, đậu, rau trái, củ, cá thịt hầu như đều nhiễm nhiều chất độc hại, nếu không thì phẩm chất cũng rất kém. Heo chết đã rữa, thịt gà, mỡ heo, bộ lòng thú vật phân hủy hư thối vẫn dùng hóa chất tái tạo tung ra thị trường . Ngay cả nước sạch để ăn uống và tắm rửa  cũng có độ chất độc Arsinic (asen – thạch tín) rất cao.

      -  Vì đào bới, san lấp, kể  cả phá rừng, lấp biển không có kế hoạch lâu dài, dựa trên sinh thái nên hầu như toàn nước Việt Nam ngày nay môi trường sinh thái trở nên vô cùng tồi tệ, ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe người dân. Cứ nhìn vào các bệnh viện ở Saigon thì thấy những khoảng không gian trong khuôn viên nay không còn nữa.

               II-/ Về Nhân quyền và tinh thần

     -  Xã hội đen tối xuống tận cùng vực thẳm, chỉ toàn lừa gạt, gian trá, băng đảng côn đồ lưu manh. Đạo đức suy đồi băng hoại khiến luân thường đảo ngược. Thanh thiếu niên sa đọa tứ đổ tường ngay từ trong trường tiểu học, nam nữ  học sinh lớp năm, lớp sáu cũng đã biết làm tình ngay tại nhà vệ sinh trong trường. Nữ sinh viên bán dâm, làm gái gọi, Nam sinh sinh viên làm đĩ đực.

     -   Mọc lên từ thành thị đến thôn quê, thậm chí tại những buôn làng hẻo lánh các tỉnh miền Trung, hàng ngàn ngàn nhà hàng, quán nhậu, quán lắc, quán cà phê … để đưa thanh niên vào vòng trụy lạc. Nạn xì ke ma túy lan tràn đến tận cùng thôn xóm. Nhà chứa, ổ mại dâm, đường dây gái gọi nhiều vô kể khắp chợ cùng quê.

      -  Giáo dục thoái hóa chưa từng thấy. Bán bài thi, mua bán bằng cấp giả khắp hang cùng ngõ hẻm. Quay cóp bài ngay trong phòng thi và trước mặt giám khảo. Thầy giáo gạ tình nữ sinh, ra giá cho điểm đậu bằng những cuộc ái tính. Thuyết cộng sản đã bị vứt sọt rác ngay tại cái nôi sinh ra nó từ hai chục năm rồi, mà ở Việt Nam vẫn còn nhồi nhét bắt học sinh phải học.

     - An ninh đời sống. Bằng một bộ Công an khổng lồ với cả hàng ngàn cấp tướng mà nạn buôn lậu, trộm cắp, cướp của,  cướp giật,  băng đảng, xã hội đen mọc lên như nấm trời mưa, nhan nhản khắp hang cùng ngõ hẻm và chúng hành động công khai ngay thiên thanh bạch nhật tại trung tâm thành phố. Đến nỗi người ta đã phải nói người Saigon tập “sống chung ” với cướp.

      -  Mỗi đầu năm học, số học sinh phải bỏ học dở dang cả trăm ngàn em, vì gia đình không còn khả năng cho tiếp tục học hành. Cũng như đã và nay vẫn còn nạn những mẹ mìn về những miền quê nghèo khổ dụ dỗ các bé gái vị thành niên con nhà nghèo đưa qua các nước láng giềng Kampuchea, Thái Lan bán cho tú ba nhà chứa.

      Bởi không có bộ mặt loài người, nên CSVN từ quốc tặc đầu sỏ Hồ Chí Minh xuống đến bọn Bắc bộ phủ ngày nay, chúng đã chỉ bán nước dâng biển đảo cho kẻ thù phương Bắc không thôi, mà chúng còn thi nhau vơ vét tài nguyên làm cho đất nước rách nát tang hoang, bóc lột, cướp tài sản của cải, vườn ruộng của người dân. Không những thế chúng còn cấm đoán, ngăn cản người trong nước dù chỉ nói hay viết ra lòng yêu nước của mình, cũng bị đọa đầy, tù tội, nhẹ thì cũng bị dọa nạt khủng bó tinh thần. Cho nên, cũng vẫn như lời Ông Boris Yeltine rằng : “ Anh có thể xây ngai vàng bằng lưỡi lê nhưng anh không thể ngồi lâu trên đó. Cộng sản không thể nào chữa trị, cần phải đào thải chúng nó …” Và chắc chắn CSVN bằng sức mạnh tổng hợp toàn dân sẽ tiêu diệt hết sạch chúng một ngày không xa.  

 

__._,_.___

Reply via web post

 

 

 

 

 

 

.

__,_._,___

No comments:

Post a Comment