Tuesday, April 30, 2013

John McCain và cuộc trao trả tù binh 40 năm trước

John McCain và cuộc trao trả tù binh 40 năm trước

Thượng viện Mỹ tuần qua có buổi kỷ niệm dành cho thượng nghị sĩ John McCain, đánh dấu ngày 40 năm ông được trao trả trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Tù binh nổi tiếng ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội nay là nhà lãnh đạo tích cực ủng hộ mối quan hệ giữa hai nước.

Thượng nghị sĩ, cựu ứng cử viên tổng thống Mỹ, John McCain, từng tham chiến trên chiến trường Việt Nam với tư cách là phi công hải quân. Khi thực hiện cuộc ném bom ngày 26/10/1967, máy bay của McCain bị bắn trúng trên bầu trời Hà Nội và ông trở thành tù binh chiến tranh.
McCain cùng nhiều tù binh Mỹ khác được trao trả ngày 14/3/1973, cách đây đúng 40 năm, theo điều khoản trao đổi tù binh của Hiệp định Hòa bình Paris. Cuối tuần trước, một lễ kỷ niệm nhỏ đã diễn ra ở quốc hội Mỹ dành cho ông nhân dịp này. Thượng nghị sĩ John McCain là một trong những nhà lãnh đạo Mỹ ủng hộ việc bình thường hóa cũng như thúc đẩy mối quan hệ song phương Mỹ và Việt Nam.
McCain (hàng đầu bên phải) cùng với đội bay của mình năm 1965. Trước khi may bay bị bắn rơi, McCain đã thực hiện 22 lần bay khác trên bầu trời miền bắc Việt Nam. McCain cùng các đồng đội tỏ ra mệt mỏi với chiến dịch Sấm Rền (Rolling Thunder) được chỉ huy từ Washington. "Các mục tiêu có giới hạn và chúng tôi cứ phải bay tới bay lui và tấn công mãi vào một số mục tiêu. Phần lớn các phi công trong đơn vị tin rằng các mục tiêu của chúng tôi chẳng có giá trị và chúng tôi thấy rằng những chỉ huy thật là ngốc nghếch, và với cách này chúng tôi chẳng thể chiến thắng nổi", McCain cho biết trong một cuốn sách được xuất bản năm 2000.
Máy bay A-4E Skyhawk, chiếc mà McCain lái, 6 ngày trước bị bắn trúng, trên tàu sân bay Oriskany. Máy bay của McCain chao đảo sau khi bị bắn và lộn một vòng theo chiều dọc ở tốc độ cao. McCain bị gãy tay, chân và nhảy dù xuống hồ Trúc Bạch.
Bức ảnh tư liệu của Thư viện Quốc hội Mỹ cho thấy McCain (giữa) bị bắt trên hồ Trúc Bạch ở Hà Nội sau khi bị bắn hạ vào ngày 26/10/1967. Bức tượng đài nhỏ bên hồ Trúc Bạch ngày nay nói về sự kiện này. Khi trở lại Hà Nội, McCain cũng đến bên hồ nơi ông từng "hạ cánh" và thăm lại nhà tù Hỏa Lò.
McCain bị thương nặng sau khi trúng đạn và được đưa tới bệnh viện ở Hà Nội để chữa trị như một tù binh chiến tranh. Ông ở viện 6 tuần và sau đó được đưa tới nhà tù Hỏa Lò, còn được biết đến với tên lóng "Hanoi Hilton".
John McCain đi đầu trong đoàn 108 tù binh chiến tranh được trao trả cho phía Mỹ tại sân bay Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội ngày 14/3/1973. "Tại sân bay, chúng tôi xếp thành hàng theo thứ tự ngày chúng tôi bị bắn hạ và chúng tôi cố duy trì phong thái của người lính trước những tiếng lách cách liên tục của máy chụp ảnh và đám đông người Việt Nam vây quanh chúng tôi. Các quan chức Việt Nam và Mỹ ngồi ở một chiếc bàn, mỗi người có một bản danh sách tù nhân. Đại diện cả hai quân đội gọi tên các binh sĩ. Tôi bước lên chiếc bàn và chào. Một quan chức hải quân Mỹ bắt tay tôi và chỉ cho tôi đường tới máy bay", McCain nhớ lại ngày được trao trả 40 năm trước.
Chiếc máy bay C-141 chở McCain tới Căn cứ Không quân Clark ở Philippines sau khi rời khỏi Việt Nam.
McCain bắt tay tổng thống Mỹ khi đó là Richard Nixon tại Washington sau khi về nước. New York Times cho hay, thời gian hơn 5 năm trong nhà tù tại Việt Nam được cho là có ảnh hưởng nhiều đến quan điểm của ông về các chính sách chiến tranh, dẫn đến những cuộc thảo luận của ông sau đó về chủ đề này.
Bộ quần áo phi công của John McCain được trưng bày trong Bảo tàng Nhà tù Hỏa Lò, nơi McCain bị giam giữ những ngày ở Việt Nam.
Ông McCain cùng con trai trở lại thăm Bảo tàng Nhà tù Hỏa Lò vào năm 2000. McCain cho biết ông đã quay lại Việt Nam nhiều lần trong những chuyến đi dành cho cựu tù binh chiến tranh và các chương trình tìm kiếm quân nhân mất tích (POW/MIA). Đây là một đất nước xinh đẹp, ông được Việt Nam chào đón và "cảm thấy vui mừng vì Mỹ và Việt Nam có nhiều nỗ lực xây dựng mối quan hệ tốt đẹp từ đống đổ nát của cuộc chiến tranh gây đau thương cho cả hai phía", McCain viết. Theo ông, dù còn bất đồng trên một số quan điểm nhưng mối quan hệ đối đầu cũ giữa hai bên nay được thay thế bằng những niềm hy vọng mới về hợp tác kinh tế, thương mại và cả quốc phòng, vào thời điểm 40 năm sau ngày các lính Mỹ rời khỏi Việt Nam.
Vũ Hà (Ảnh: AP

“ ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ … Ở TÙ MỚI HAY !!!”

“ ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ …
Ở TÙ MỚI HAY !!!” 
Những ai từng ở tù từng chịu đựng nỗi đau gậm nhấm tâm hồn từng ngày từng giờ mới thấy thấm thía câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du sao mà hay đến thế. Chắc hẳn ngày xưa cụ cũng có tâm trạng giống hậu sinh chúng mình. Ôi cái cảnh đoạn trường, nỗi buồn đau ray rứt khiến lòng ta se thắt .. quằn quại như đứt từng khúc ruột..! Có trải qua “Đoạn đường chiến binh” của một chiến sĩ lao tù chân cùm tay xích mới thấm thía cái cảnh ngồi vò võ một mình, suy nghĩ vẩn vơ vì cứ suy đi nghĩ lại mãi một chuyện không giải quyết được vấn đề gì nên gọi là suy nghĩ thực ra nghĩ chỉ để nghĩ mà thôi! Ngày nào cũng ngồi nhìn từng vệt nắng xuyên qua khe cửa với những hạt bụi xoay vần như muôn vàn tinh tú, chiếu lên tường di chuyển dần theo từng buổi sáng trưa chiều … hết ngày này sang ngày khác, hết tháng này sang tháng khác …
Thân phận một người tù với những đoạ đày thống khổ vô cùng tận. Hai chân bị cùm nằm ngửa chờ chờ để “Nhìn những mùa thu đi ..!”, mà không phải một hai mùa thu mà năm mười mùa thu, hai mươi mùa thu .. Lúc mới vào tù còn tính từng ngày từng giờ rồi đến một lúc nào đó, trong đầu óc không còn ý niệm thời gian gì nữa mà ngày hai buổi chỉ trông mau đến giờ ăn, thế thôi .. Cuộc sống èo ọt thế mà vẫn còn thoi thóp sống ..! Thế mới biết sức sống của con người là vô biên, không sao hiểu nổi sức con người có thể chịu đựng được..!?
Hơn hai mươi năm tù, tôi sống được chính là nhờ niềm tin vào lý tưởng tất thắng của chính nghĩa quốc gia dân tộc. Đại nghĩa tất thắng hung tàn, chí nhân phải thay cường bạo. Không phải chỉ mình tôi mà anh em ai cũng thường ngâm nga hai câu thơ của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ, nguồn an ủi sức sống vô biên cho người tù sống còn để trở về với vợ con, sống còn để chờ ngày chiến thắng: “Còn trời còn đất còn non nước, Không lẽ ta như mãi thế này ..?”.
Trong những tháng ngày tận cùng bằng số này, trong những lúc thập tử nhất sinh, mười phần chết một phần sống tôi đã quyết chí, lòng nhủ lòng là bằng mọi giá mình phải cố gắng chịu đựng, cắn răng mà chịu để sống một cách hào hùng không chịu khuất nhục. Tôi nhớ tới câu chuyện của Khái Hưng về một đôi vợ chồng nghèo đi vớt củi trên dòng sông Hồng, gặp cơn nước xoáy chị vợ đuối sức khi đang bơi ở giữa dòng. Anh chồng kéo chị dìu chị bơi một cách khó nhọc. Trong đầu óc chị vợ biết chồng thương mình nhưng nghĩ tới cảnh ba đứa con nheo nhóc ở nhà chờ bố mẹ về … Ngộ nhỡ chồng mình cũng đuối sức cả hai cùng chết thì sao? Chị ngoi lên mặt nước nói thều thào với chồng: “Thằng Bò, cái Nhớn, cái bé .. Anh Phải sống, phải sống ...!” rồi buông tay khỏi người chồng, chịu chết một mình đề chồng mình có thể sống mà để nuôi đàn con còn nhỏ dại … Ôi cao đẹp làm sao! Thế rồi chợt nghĩ là mình cũng phải sống để còn lo cho năm đứa con bé nhỏ của mình nữa chứ ...! Đêm đêm, hễ trời chạng vạng tối là đã ngồi cầu nguyện xin được sống lo cho năm đứa con thơ dại chứ không ham giàu có, công danh sự nghiệp gì … Nhiều lúc còn cầu xin chỉ cho sống đến ngày nhìn thấy bọn CS tiêu vong thì chết cũng mãn nguyện.
Phải thú thật một điều là những năm đầu của thời gian tù tội, lúc nào cũng nghĩ tới vợ con như một niềm an ủi vô cùng để mình cố gắng mà sống dù bất cứ hoàn cảnh nào. Mãi đến năm thứ ba, tôi mới được phép viết thư về nhà. Tôi đặt bút viết thư cho nhà tôi mà đầu óc suy nghĩ lung tung, không biết vợ tôi còn trẻ người non dạ có đủ sức để chống chỏi với những khó khăn gian khổ, những cạm bẫy của cuộc đời để nuôi năm đứa con thơ dại cho nên người? Nhà tôi có chút nhan sắc lại duyên dáng điểm xuyết một tâm hồn văn nghệ, nàng theo học trường cao đẳng Mỹ thuật Huế được vài năm thì chúng tôi yêu nhau nên về Sài Gòn bỏ dỏ việc học hành. Một con người yếu đuối mảnh mai yếu đuối biết cảm nhận từng nỗi vui buồn nho nhỏ thì làm sao mà chống chỏi với đời. Tôi viết cho nàng: “ … không biết bao giờ anh trở về thôi thì, nếu em cảm thấy cuộc đời cần bước đi bước nữa thì em cứ thanh thản ra đi vui sống, đừng bận tâm điều gì cả miễn là em cố gắng nuôi 5 đứa con của chúng ta nên người thì dù anh có chết, anh cũng vui lòng. Anh viết cho em những dòng này với tất cả tình yêu và sự suy nghĩ chín chắn nên không ai, kể cả gia đình mẹ anh và các cô chú có thể nghĩ không đúng về em, em ạ ...!”.  Hơn sáu tháng sau tôi nhận được một lá thư nàng buồn phiền phân bua với tôi rằng: “vợ chồng mình đã có với nhau năm mặt con rồi mà anh chưa hiểu lòng em à. Anh biết không, nhận được thư anh em cảm thấy buồn bực ngỡ ngàng, buồn vì chồng còn nghi ngờ không hiểu mình nên đang học xuất sắc tụt xuống hạng tồi .. Anh làm khổ em nhiêu đó chưa đủ sao anh yêu...!?” Trời ơi, không phải tôi nghi ngờ mà đó chính là lúc tôi thành thật với lòng mình nhất, tôi đau lòng nhưng vẫn phải viết cho nàng vì tôi chỉ lo cho tương lai của 5 đứa con tôi. Thật sự, tôi không mong muốn gì hơn nữa. Từ đó tôi cố tình xem như nàng đã bỏ tôi không còn gì để luyến tiếc nên an tâm vui vẻ chấp nhận thân phận của một người tù khổ sai..!
Bây giờ tuy vợ chồng tôi đã chia tay vì hoàn cảnh ngoài ý muốn nhưng nàng vẫn về thăm tôi và lo đám cưới cho Quỳnh Trâm con gái tôi. Trong ngày vui của con, nàng đã lên ngâm một bài thơ “Đôi bờ” của Quang Dũng. Nàng quá xúc động nên đang ngâm thơ bỗng dưng nghẹn ngào không ngâm được nữa, nàng bỏ lại tất cả quan khách còn đang ngỡ ngàng xúc động để vội vã ra đi che giấu những dòng nước mắt nghẹn ngào … Trong ngày vui của con nhưng vẫn không cầm được nước mắt, ôi giọt nước mắt cho một cuộc tình chia xa sao mà tuyệt vời đến thế, tạ ơn em… tạ ơn em muôn vàn ..!
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện anh về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mưa..!
Xa lắc rồi anh người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau ..
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Giọt lệ thơ ngây có nhạt nhoà ..!?
Tôi vẫn yêu nàng thơ xứ Huế của tôi, bài thơ Huế thương được viết trong một giây phút chạnh lòng như để cho chính mình, cho nàng và cho tất cả những ai có cùng một tâm trạng một nỗi đoạn trường của riêng mình mà không thể chia xẻ được với ai:
Tóc thề che phủ bờ vai
Áo dài e ấp nụ nhài đang xuân
Huế xưa xa vẫn thật gần
Hương giang lờ lững ôm chân Ngự Bình ..!
Nụ cười hàm tiếu xinh xinh
Để ai nhớ mãi cuộc tình năm xưa ..
Huế thương biết mấy cho vừa
Trải bao dâu bể Huế xưa vẫn còn ..!
Lời thề sông núi sắt son
Hồn thiêng non nước nước non quê mình ...!
 
TÔI PHẢI SỐNG ..
NHÂN LỄ TƯỞNG NIỆM ba mươi hai năm “NGÀY MẤT NƯỚC” được tổ chức ở tượng đài Việt Mỹ, tôi đến tham dự và do phải chờ đợi nói chuyện nên không đến kịp để dự “Bữa cơm cay đắng” để nhớ lại những kỷ niệu đau buồn xưa cũ, kể chuyện tù, đọc những vần thơ tù” do Tổng hội cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh và thân hữu tổ chức. Mục đích buổi họp mặt này chính là để anh em tâm tình, nhắc lại những buồn vui để chung lòng chung sức tiếp tục công cuộc đấu tranh giải thể chế độ cộng sản mang lại tự do dân chủ hạnh phúc thực sự cho hơn 84 triệu đồng bào Việt Nam. Tôi còn nợ anh em vì đã đến không kịp nên phải viết một bài về chuyện tù, thơ tù để đăng trên tạp san Hoài Bão và báo Thời Luận để tạ lỗi với anh em rồi khi đặt bút viết, ý nghĩ cứ tuôn trào nên mới chọn những bài thơ tù đoạn trường của những tù nhân bất khuất để gửi đến quí vị. Vâng, tôi xin tản mạn đôi điều tâm tình về những ngày tháng lao tù đày ải trong các trại tù của Cộng sản … Đây không phải là hồi ký nên nhớ đến đâu viết đến đó, không có đầu đuôi gì … xin quí vị thông cảm mà đại xá cho ...!
Khoảng tháng bảy năm 1978, tôi được mở cùm chân còng tay đi “làm việc” với Viện Kiểm sát nhân dân để kết cung ra tòa. Sau một thời gian dài nằm trong ngục tối, bị cùm còng đói ăn khát uống lại nếm đủ mùi vị kỹ thuật khai thác cung cán của những tên cộng sản chuyên chính dày dạn kinh nghiệm điều tra nên khi vừa bước ra ngoài xà lim, người tôi lảo đảo phải dựa vào tường mấy phút mới đứng vững được. Cô công an dẫn tôi tới một căn phòng, vừa bước vào tôi thấy một người mặt mày nhẵn bóng, bận đồ vest đàng hoàng nhưng lại ngồi chồm hổm trên ghế, để lộ cả đôi bí tất chân cao chân thấp …Thấy tôi bước vào phòng y vội bỏ chân xuống, đưa mắt nhìn cô thư ký như trách móc sao không gõ cửa báo trước để tôi nhìn thấy cảnh ngồi chồm hổm kiểu ngồi nước lụt này. Bắt đầu “khúc dạo đầu” là màn hỏi thăm sức khoẻ rồi gợi tới tình cảm gia đình, mẹ già vò võ, vợ dại con thơ rất ư là bài bản … Tuy biết là tên cáo già này nhắc tới những tình cảm thân thương ruột … làm mình mềm yếu tình cảm để mình “thành khẩn khai báo”, thế mà tôi thấy mình như chựng lại, tự nhiên thấy xót xa rồi … lòng mình mềm nhũn …. Đắc ý tên cán bộ ngồi nước lụt này nói giọng nhân nghĩa nào là “Cán bộ ở đây đối xử với anh có tốt không? Có ai đánh đập anh không? Nghiên cứu hồ sơ tôi thấy anh còn ngoan cố chưa thành khẩn nhận rõ tội lỗi của mình ….Nếu anh thành khẩn khai báo, thì khi ra toà tôi sẽ tha tội chết cho, may ra còn có ngày về đoàn tụ với mẹ và vợ con anh …”. Đến đây thì tôi chịu không nổi nữa, tôi cũng muốn kết thúc một lần cho xong nên phản ứng liền: “Anh đừng giả vờ giả nhân giả nghĩa nữa, chính anh ra lệnh đánh tôi chứ ai. Anh không can nói nhiều nữa, đưa tôi tờ giấy trắng tôi ký tên, khỏi cung với cán gì nữa ...”. Tên viện kiểm sát đập tay xuống bàn rồi tức giận bỏ đi ra khỏi phòng … Khi tên kiểm sát vừa bước ra khỏi phòng, cô bé thư ký bước vội tới nắm lấy vai tôi nói vội: “Tại sao chú lại nói vậy, chú có biết ông này … thằng này nó giết bao nhiêu người rồi không … Chú phải sống ...”. Nói xong như lỡ lời, cô bé trở về chỗ ngồi nhìn tôi bằng đôi mắt ái ngại … Tôi cũng ngạc nhiên trước thái độ của cô thư ký “cộng sản” giàu lòng nhân ái này, hình ảnh bộ mặt hốt hoảng của cô bé theo tôi mãi cho đến bây giờ, xin cảm ơn người cán bộ “ba mươi” còn lại chút tình người..!
Sự việc không chỉ dừng tại đây, một buổi sáng sớm, cửa phòng xà lim mở ra … Hai tên công an kè tôi ra, còng hai tay ngược ra phía sau. Một trái chanh nhét vào miệng tôi rồi bịt mắt bịt miệng tôi bằng một cái khăn. Tên kiểm sát viên nói với tôi bằng một giọng rất ư là căng thẳng như để hù doạ tôi: “Tôi cho anh đúng nửa giờ để suy nghĩ, nếu anh cần khai báo thêm thì gật đầu, còn không thì anh không còn dịp nào để nói nữa. Nếu cần cứ bắn bỏ khỏi cần xét xử gì hết ...”. Tiếng anh em nhà bếp gọi nhau í ới, sáng nay không biết phòng nào “ăn gà” đây? Thường thì mỗi lần nhà bếp bị đánh thức sớm làm một con gà con thì có một anh em trong xà lim bị tử hình. Anh em cố tình nói lớn giọng để chúng tôi nghe thấy kịp để báo cho nhau cùng cầu nguyện … không biết ai trúng lô sổ xố độc đắc đây? Tôi ngồi miên man suy nghĩ, cả một cuốn phim từ lúc còn nhỏ thoáng hiện trong tâm trí, nhớ đến mẹ tôi, vợ con tôi … thôi thì nếu có “ăn gà” thì cũng là sự giải thoát cho gia đình và cả cá nhân tôi. Mẹ tôi sẽ khỏi phải lo âu mãi, buồn khóc một vài lần rồi sẽ nguôi ngoai thôi. Vợ tôi sẽ yên tâm, bớt đi phần lo thăm nuôi tôi để lo cho các con tôi và nàng cũng có thể bước thêm bước nữa để nuôi cho các con tôi là đủ rồi … thế thôi, đến đâu thì đến..! Đang miên man suy nghĩ thì tên viện kiểm sát lớn tiếng: “Mày nhất định không chịu khai hả? Dẫn nó ra, cột vào”. Tôi một thoáng bàng hoàng biến sắc, ngoài trời Đà Lạt gió lạnh thốc vào mặt khiến tôi sởn tóc gáy, nổi da gà và hai chân hơi run run đi không muốn vững. Tôi gắng gượng để đứng thẳng người …. Rồi một loạt đạn xé ngang tai khiến tôi chết lặng cả người cho đến khi nghe tiếng chửi thề tục tĩu của tên viện kiểm sát mà tôi phải chép lại nguyên văn mới diễn tả hết được nỗi căm thù của tên CS cuồng tín say sưa quyền lực này: “Địt mẹ thằng này ngoan cố quá… Dẫn nó về còng nó rục xương cho tao…”. Lúc đó, tôi mới tin là mình còn sống. Hai tuần sau chúng đưa anh em chúng tôi ra toà sau khi biết rằng đòn cân não không khai thác gì được tôi.
Tôi lại gặp tên Việt cộng oan gia này khi ra toà, y tên là Võ Hoa Thám, viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng hằn học đọc bản cáo trạng kết tội tôi: “Phạm Trần Anh là một tên phản động cực kỳ ngoan cố, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có kinh nghiệm chống phá cách mạng, cấu kết với các thế lực phản động trong và ngoài nước để lật đổ chính quyền cách mạng. Viện kiểm sát nhân dân đề nghị tuyên phạt y bản án thích đáng cách ly xã hội ….”. Thưa quí vị. Viện kiểm sát đề nghị cách ly xã hội không thôi nghĩa là kết án chung thân chứ thêm 2 chữ vĩnh viễn nghĩa là ăn gà tử hình thì kẻ hèn này đã rửa cẳng lên ngồi bàn thờ rồi còn đâu mà tản mạn đoạn trường hầu quí vị đây …
SAU NGÀY CỘNG SẢN XÂM CHIẾM MIỀN NAM rất nhiều tổ chức do những anh em yêu nước chống cộng đứng ra thành lập. Bà con đồng bào mình đang sống khổ sở khốn khó thì những tin tức về sự xuất hiện của lực lượng Nhảy dù, Biệt động, Thuỷ quân Lục chiến trong rừng nên ai nấy đều mừng rỡ ra mặt, hễ gặp nhau là nhỏ to tin tức về “quân của mình” tới chỗ này chỗ kia rồi ... Anh em trong tổ chức thì ra sức rỉ tai tuyên truyền kết nạp thêm chiến hữu, xây dựng cơ sở chờ khi quân đội mình đánh vào là nổi dậy ...Tôi viết bản Tuyên cáo kêu gọi đồng bào sẵn sàng hưởng ứng cuộc Tổng nổi dậy đánh đuổi Cộng sản. Anh em được lệnh thả truyền đơn khắp Bảo Lộc, mấy tên khu xóm “ba mươi” hành hạ dân chúng cũng nhận được thư cảnh cáo. Buổi sáng bà con đi chợ thấy truyền đơn nên dư luận bàn tán xôn xao, mấy tên “khu xóm” cũng không dám hống hách như trước ... Hồi đó do tinh thần yêu nước chống cộng nên khi có người sốt sắng ủng hộ, gia nhập là anh em mình mừng rồi vô tình sơ hở để lộ bí mật của tổ chức dù đã được nhắc nhở khi tuyên thệ gia nhập Mặt trận. Mặt trận Người Việt tự do bị cộng sản phá vỡ do sự sơ hở của chiến hữu Nguyễn văn Thầm đã tuyên truyền kết nạp đúng một tên công an đang tìm cách xâm nhập để phá vỡ tổ chức. Anh Thầm thấy bị lộ nên đã quyết định hi sinh bằng cách uống dầu xe tự sát không để cộng sản khai thác tiếp … Nhận thấy có những dấu hiệu bất thường tôi đã thông báo với linh mục Phạm Gia Hoá trước 1975 đặc trách công giáo Thượng. Linh mục nói tôi cứ yên tâm về Bờ Kẹ chờ anh em ra đón. Tôi đang lo thu xếp ổn định cuộc sống cho vợ con tôi và chờ anh em Fulro đón vào rừng thì bị bắt …!
Bắt nguồn từ lòng yêu nước, căm thù cộng sản độc tài bóc lột xương tuỷ nhân dân nên anh em khắp miền Nam đứng lên thành lập các tổ chức lực lượng nhân dân yêu nước chống cộng. Các tổ chức bộc phát nên bước đầu còn nhiều thiếu sót nên chính sự hăng say nhiệt tình của anh em đã tạo ra những sơ hở không thể tránh được. Trong khi đó thì cộng sản đã tổ chức một hệ thống tình báo đặc biệt dày đặc giăng lưới khắp nơi để xâm nhập. Bọn này cũng đi rỉ tai tuyên truyền chống cộng rồi khi nghe có tổ chức là chúng đóng vai chống cộng hết mình, giúp đỡ tổ chức máy đánh chữ, giấy tờ để in truyền đơn … để xâm nhập chờ đến khi tổ chức sắp hành động mới phá vỡ các tổ chức của chúng ta. Tuy do những sơ hở mà hầu hết các tổ chức của người Việt Nam tự do chống cộng bị phá vỡ nhưng sự hi sinh của tất cả những người yêu nước chống cộng đã gây một tiếng vang tố cáo sự xâm lược của cộng sản. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, dư luận thế giới lên án Hà Nội xé bỏ hiệp định Paris xâm lược miền Nam. Thủ tướng CS Phạm văn Đồng sang Pháp rêu rao là cộng sản không xâm lược miền Nam bằng chứng cụ thể là khi vào miền Nam được nhân dân đón tiếp nồng hậu, không hề có một sự chống đối nào.
Sự ra đời của hàng loạt các tổ chức chống cộng, hàng trăm bản án tử hình và hàng ngàn tù nhân chính trị là minh chứng hùng hồn nhất cho sự chống đối của quân dân miền Nam và là bản cáo trạng về sự xâm lược của cộng sản Hà Nội trước dư luận trong và ngoài nước. Sự dấn thân đóng góp của những tổ chức yêu nước chống cộng sau 1975 đã mở đầu cho những phong trào chuyển lửa về quê hương của đồng bào Hải ngoại. Đồng thời ngay trong hàng ngũ đảng viên cộng sản, những những người cộng sản yêu nước phản tỉnh cũng đã cất lên tiếng nói đòi xét lại, trả lại quyền dân chủ cho nhân dân từ viên tướng Trần Độ đến viện trưởng viện nghiên cứu Mác Lê Hoàng Minh Chính, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, Nguyễn Thanh Giang, Lê Hồng Hà … Những người yêu chuộng tự do dân chủ và công bằng xã hội trên toàn quốc đã nhập cuộc ngay trong lòng xã hội chủ nghĩa. Từ những trí thức trẻ như một bác sĩ Phạm Hồng Sơn, luật sư Lê thị Công Nhân, luật sư Nguyễn văn Đài, nhà văn Dương Thu Hương, nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ… đến Nguyễn Khắc Toàn, Nguyễn Tấn Hoành đại diện cho hàng triệu công nhân bị áp bức bóc lột, Lê thị Kim Thu, Thu Hồng đại diện cho hàng triệu nông dân oan khiên khiếu kiện trên cả nước. Mới đây tình hình đã bước sang một giai đoạn mới khi bà Nguyễn thị Kỷ và mốt số lớn dân oan bây giờ không những chỉ khiếu kiện mà đã chính thức đấu tranh đòi đa nguyên đa đảng. Phong trào dân chủ nở rộ ngày một lớn mạnh sẽ như dòng thác cách mạng cuốn trôi chế độ cộng sản cùng những rác rưởi tệ hại của nó. Sự trấn áp thô bạo các chiến sĩ dân chủ cùng với hàng vạn dân oan xuống đường báo hiệu sự cáo chung của chế độ cộng sản trong một ngày gần đây. Đó là một tất yếu lịch sử không thể đảo ngược được.
TÔI PHẢI THÚ THẬT VỚI QUÍ VỊ một điều là nằm trong tù buồn quá, nghe lòng mình lắng đọng mà cảm hứng làm thơ, với tôi đó là những vần thơ bất đắc dĩ trong tù vì có bao giờ dám nghĩ là mình lại làm thơ được đâu? Thế rồi nhân đọc được bản tin của Liên hội Nhân quyền Thuỵ Sĩ, tự nhiên nảy sinh ra ý nghĩ phải gửi những vần thơ của những tù nhân bất khuất viết từ đáy địa ngục trần gian đến tay quí vị. Đặc biệt là một người anh em tù, anh Hướng Dương Vũ Đình Thụy đã được trao giải thưởng Vasyl Stus 2007 “Quyền tự do viết văn” (Vasyl Stus Freedom-to-write Award) và được mời làm hội viên danh dự của Trung tâm Văn bút Hoa Kỳ/ PEN New England. Theo bản tin của Liên hội Nhân quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ thì Hướng Dương Vũ Đình Thụy là người cầm bút thứ 10 trên thế giới được vinh danh từ khi có giải thưởng cao quí này.
Giải thưởng Vasyl Stus quyền tự do viết văn được trao tặng cho những nhà văn nhà thơ bị ngược đãi hoặc tù đày chỉ vì đã dùng ngòi bút để diễn đạt những tư tưởng của họ. Hơn nữa đối diện với chế độ kiểm duyệt và đàn áp, lòng dũng cảm của họ thật gương mẫu xứng đáng được ca ngợi. Giải thưởng mang tên Vasyl Stus để vinh danh nhà thơ và nhà phê bình văn học Ukraine. ông Vasyl Stus là tiếng nói biểu tượng lãnh đạo thế hệ của ông. Năm 1965, ông Vasyl Stus bị trục xuất khỏi viện Văn chương thuộc Hàn Lâm viện khoa học Liên Xô vì ông phản đối những vụ công an bí mật bắt giữ các nhà dân chủ đối kháng và những phiên xử kín ngày càng nhiều thêm. Bị buộc tội kích động tuyên truyền chống Liên Xô”, ông bị bắt năm 1972 và bị kết án 5 năm tù trong trại cưỡng bách lao động với chế độ hết sức khắc nghiệt, kèm theo 3 năm lưu đày. Sau khi trở về, năm 1979 ông tham gia nhóm nhân quyền Helsinki Ukraine, ông bị bắt lại năm 1980 và một lần nữa bị kết án 10 năm tù trong trại khổ sai lao động kèm theo 5 năm lưu đày. Vasyl Stus là nhà văn cuối cùng đã chết ngày 4 tháng 9 năm 1985 khi mới có 47 tuổi trong “Goulag Sô Viết”, một đại địa ngục từng được CS Việt Nam xem như kiểu mẫu của chuyên chính vô sản quốc tế.
Nhà thơ Hướng Dương Vũ đình Thụy tên thật là Võ Lâm Tể 59 tuổi, nguyên là một Thiếu uý Biệt Động quân VNCH là tác giả của những bài thơ rất truyền cảm. Tất cả những bài thơ đều được sáng tác trong các trại tù cộng sản. Thơ anh biểu lộ tính nhân bản, tình yêu quê hương và lòng quí trọng tự do. Anh bị bắt làm tù binh bị lưu đày không xét xử để “cải tạo” trong các trại tù cưỡng bách lao động từ năm 1975 đến 1978. Sau khi trốn khỏi trại tù Pleiku, anh thay đổi tên họ là Vũ Đình Thụy tổ chức chống cộng đòi hỏi tự do dân chủ và nhân quyền. Năm 1979 anh bị bắt lại và bị chế độ CS kết án 20 năm và đưa đi đày ải ở trại tù Xuân Phước A20 Phú Yên. Khoảng năm 1984, anh tìm cách gửi tập thơ “Trước toà Công lý” ra hải ngoại nhưng sự việc bất thành nên bị xử án chung thân. Anh vừa mới ra tù cách đây 3 tháng sau 31 năm 10 tháng 11 ngày tù, bản án dài nhất thế kỷ này chính là bản cáo trạng về tội ác của chế độ cộng sản phi nhân bạo tàn nhất trước lịch sử nhân loại.
HỒI CÒN LÀ HỌC SINH ngồi dưới mái trường thân yêu nghe thầy giảng về Truyện Kiều của Nguyễn Du, lắng nghe tâm trạng “ Hoài Lê” của Đại thi hào Nguyễn Du vẫn không thể nào hiểu nổi với cái vốn liếng nghèo nàn về Hán Việt của một học sinh Trung học:
“Quốc phá gia vong, gia quốc lệ ..
Lục tuần lao ngục tử sinh tâm ..!”.
Thì ra đại thi hào cũng đã ở tù vì thù nhà nợ nước với tấm lòng thanh thản không biết sống chết là gì ... huống chi mình mới ở tuổi ba mươi … Thế nên nổi hứng dám liều làm 2 câu thơ đồng cảm với đại thi hào một phen:
“ Quốc phá gia vong, vong quốc hận..
Cửu niên diện bích bất tử tâm ..!
Chẳng phải là can đảm hay ho gì nhưng ở tù lâu quá, ngồi nhìn trừng trừng vào mấy bức tường suốt gần chín năm trời nên không phải không sợ chết như đại thi hào mà là lì đòn, tới đâu thì tới, điếc không sợ súng nữa thế thôi! Trong lịch sử văn học Việt Nam có rất nhiều người yêu nước nhưng chỉ có hai danh nhân văn hoá Việt luôn luôn thao thức trăn trở về vận nước, luôn luôn nhớ về cố quốc về lãnh thổ xa xưa của Việt tộc. Đại thi hào Nguyễn Du trong “Bắc hành Tạp lục” gồm 109 bài thơ chữ Hán, tất cả đều nói lên tâm tư hoài cổ truy ức về lịch sử xa xưa của Việt tộc như  Cửu Lê, Lũng Thục, Kinh Châu, Dương Châu, Trường Sa, hồ Động Đình, Lưỡng Quảng …. Đặc biệt Nguyễn Du đã biểu lộ tâm trạng nuối tiếc, tấm l òng của môt con dân đất Việt trong bài “Triệu Vũ Đế cố cảnh” như sau:
“Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu” kẻ hèn này xin tạm dịch là: “Còn đâu mộ cổ Phiên Ngung một thời ..!”.
Khi đi sứ sang Tàu, đứng trước cảnh cũ người xưa, nhìn lai giang sơn gấm vóc của tiền nhân nay đã không còn nữa. Nguyễn Du đã cảm khái bài “Đổng Tước Đài”. Trong bài “Phản Chiêu hồn”, “Vịnh Khuất Nguyên”, vịnh những địa danh xưa cũ của Việt tộc. Nguyễn Du đã nói lên tâm sự u hoài hướng vọng về cố hương, quê cha đất tổ của con cháu Rồng Tiên trước cảnh suy vong của Văn Lang xưa cũ nên mới cay đắng thốt lên: “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng ..!”. Đại thi hào Nguyễn Du cũng gửi gấm hoài bão tâm sự của một con dân nước Việt khi làm thơ vịnh Hạng Võ, người anh hùng khí đoản của Việt tộc đã chịu thất bại trước một Lưu Bang tầm thường của Hán tộc như sau:
Cập thức bại vong phi chiến tội,
Không lao trí lực dữ thiên tranh ..
Cổ kim vô ná anh hùng lệ,
Phong vũ không văn sất sá thanh ...!
Lẽ được thua vốn tùy vận số,
Sức người sao địch nổi lý trời …
Xưa nay anh hùng thường nuốt lệ,
Gào thét gầm vang át gió mưa …!
Tôi còn nhớ mãi truyện kể về mối tự tình dân tộc của Nguyễn Du và một chủ nhân lò gốm cũng là người Việt cổ bên Giang Ninh ở Hoa Nam Trung Quốc. Chủ nhân nhờ thi hào viết lên mấy vần thơ trên bộ đồ gốm để làm kỷ niệm nhân gặp người đồng bào tri kỷ của mình. Nguyễn Du cảm khái đặt bút viết ngay 2 câu:
“Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ… Hạc là người quen”.
Mai và Hạc là biểu trưng Việt tộc của hoạ phái Hoa Nam khiến chủ nhân hết sức cảm động, ôm Nguyễn Du mà khóc rồi huỷ luôn khuôn đúc. Trước lúc chia tay, chủ nhân lò gốm đã trịnh trọng biếu Nguyễn Du bộ tách trà để làm kỷ niệm gặp lại người đồng bào Việt “văn hay chữ tốt” của mình ..!
ĐẠI THI HÀO NGUYỄN TRÃI cũng phiêu dạt sang Trung quốc để tìm theo cha là Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt đưa sang Tàu. Nhờ đó, Nguyễn Trãi tìm lại những địa danh xưa cũ của Việt tộc nên khi về nước, Nguyễn Trãi đã từng đêm ngồi ngắm sao Ngưu Đẩu để hướng vọng về Trung nguyên của Tổ tiên Bách Việt thuở xa xưa: “Dạ y Ngưu Đẩu vọng trung nguyên”. Đặc biệt, đại thi hào Nguyễn Trãi cũng ngồi ôm chân cùm mà lo âu về vận nước nên mới xuất khẩu thành thơ :
“ Tì túc lãnh kìm ưu quốc sự ..!”.
Hồi còn nhỏ tôi rất thích áng văn bất hủ “Bình Ngô Đại cáo” của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi, bây giờ tôi còn cảm thấy có sự đồng cảm lạ lùng và thật sự thán phục chí khí của Đại thi hào Nguyễn Trãi. Suốt đêm nằm ngủ không được miên man nhớ tới Ức trai Tiên sinh “Quán tưởng Ức Trai dạ bất miên” nên diễn ý thành mấy câu thơ như sau:
Ôm chân cùm lạnh đêm đông,
Nửa mong việc nước nửa trông tin nhà ..!
Ức Trai Nguyễn Trãi thi ca,
Ngàn năm văn học nước nhà lưu danh ..!”.

NGÀY THÁNG ĐÓ ..!
NHIỀU LÚC NGỒI NGHĨ lẩm ca lẩm cẩm không chừng mà lại đúng để tự an ủi mình rằng có lẽ kiếp trước mình cũng là tay sát thủ “Độc cước đại hiệp”chăng? Với cú đá song phi sát thủ chắc chết nhiều người lắm nên kiếp này mới bị cùm hai chân banh ra, cứ nằm ngửa chờ chờ không nằm nghiêng được... gần bẩy năm trời! Lồng ngực và hai lá phổi như xẹp lép dán xuống nền ciment. Anh em ai cũng có cảm giác như mình đang ngồi trên một phi thuyền đi vào không gian vô định, không biết bao giờ đáp xuống hoặc bị nổ tung bất cứ lúc nào?
Lúc đó ngoài giấc mơ chiến thắng mình còn mơ ước nhỏ nhoi là được ngủ nghiêng một giấc, đơn giản thế thôi. Vậy mà giấc mơ đó 7 năm sau khi ra khỏi xà lim mới thành hiện thực:“ Bẩy năm mơ giấc ngủ nghiêng, hết đêm lại sáng xích xiềng chân tay...” Ừ xích thì xích, xiềng thì xiềng có chết thằng Tây nào đâu mà sợ. Máu anh hùng lại nổi lên thách thức ngạo nghễ:
“ Chân cùm tay xích đầu sao xích,
Xích sẽ có ngày xích phải tung ..!
Tư tưởng tinh thần làm sao xích,
A ha .. A ha ..!
Xích sẽ đến ngày xích phải tung ...!
Thỉnh thoảng đôi lúc thấy mình được nối gót tiền nhân bỗng không thấy buồn nữa mà chỉ buồn năm phút thôi nên lại rung đùi thấy khoái chí. Ngày xưa chỉ có cấp tướng mới có 1 trung đội lính gác còn ta bây giờ “Nước mất nhà tan” rồi mà còn có cả một đại đội Việt cộng chăm lo canh gác, cơm bưng nước rót đầy đủ còn gì sướng hơn, bèn xụất khẩu thành thơ luôn: “Cơm bưng nước rót canh đưa, Hỏi chi sướng vậy xin thưa ủ tờ “. Ủ tờ là ở tù đó quí vị ạ … Thế rồi một buổi sáng nọ, sau bốn tháng nằm xà lim mới được cho ra tắm 1 lần rồi ngồi phơi nắng gần “Tứ giác đài”, anh em thường gọi đùa như vậy vì khu xà lim có 4 phòng bê tông kiên cố, tường dày hơn 40 cm … chỉ thua Ngũ giác đài một chút thôi. Tình cờ bạn ta thi sĩ Tú Kếu, người một thời nổi tiếng vì xem: “Sự đời như cái lá đa, đen như mõm chó chém cha sự đời ...” nay cũng ở tù với ta, ở đâu đi ngang qua, vẫn dáng người gầy gò, đi đứng lều khều, mặt thì vêu lên, râu ria lổm chổm và vẫn phong độ như ngày nào. Người đi ngang ta, mặt vẫn nhìn thẳng đọc liền một câu như đắc ý lắm:
“Nhân dân ta rất anh hùng ..
Lát sau lại làm bộ đi ngang qua lần nữa, sợ mấy thằng chèo nhìn thấy nên mặt vẫn nhìn phía trước tỉnh bơ nói:
Đảng ta lãnh đạo .. nửa khùng nửa ngu ..!”
Tôi ngồi nghĩ mãi chẳng biết nói gì với bạn ta, mà mấy chú cán bộ nó ngồi nhìn chằm chặp nên tôi cũng ngồi tỉnh bơ lải nhải một mình rồi đợi bạn ta đi ngang vội đọc cho Tú Kếu nghe:
“Nhân dân ta rất cần cù …
Đảng ta lãnh đạo .. nửa ngu nửa khùng ..!”
và cứ thế cứ anh hùng rồi lại nửa khùng nửa ngu, lại rất cần cù rồi đảng ta lãnh đạo nửa ngu nửa khùng … thế mà cũng đã ba mươi hai năm qua đi rồi các bạn ạ. Ba mươi hai năm nhìn lại để trong mỗi chúng ta chẳng thể nào quên:
Ngày tháng đó suốt đời ta nhớ mãi ..
Cả Sài Gòn phủ kín một màu tang ..!
Cờ hạ xuống bao hồn thiêng u uất,
Nước ngậm ngùi chứng kiến cảnh bể dâu ...!
Sáng 30 tháng tư, phố xá Sài Gòn mang một bộ mặt khác thường, người qua kẻ lại hớt hãi vội vàng, phố xá ngổn ngang giày dép áo quần vất bỏ từng đống trên những con đường hoang tàn xơ xác của một thành phố chết. Người Sài Gòn vẻ mặt hốc hác sau mấy đêm dài mất ngủ, ngỡ ngàng ngơ ngác nhìn nhau. Rồi thì mạnh ai nấy tính, kẻ lo tìm đường vượt biển, người rầu rĩ khăn gói về quê, đổi chỗ ở tránh sự truy tìm lý lịch trả thù của Cộng sản. Buổi sáng hôm đó, tôi như kẻ mất hồn đi lang thang khắp Sàigòn lúc vừa đến tượng đài Thuỷ quân Lục chiến ở trước Hạ viện thì nghe súng nổ, bà con lại xôn xao nói về người chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà nào đó đã móc súng tự sát trước tượng đài mà sau này biết ra là Trung tá Long Cảnh sát Quốc gia. Buổi trưa sau khi từ Dinh Độc lập đi bộ lững thững về chợ Bến Thành, ngược trở lại Lê văn Duyệt tìm một quán cóc bên đường, kêu một ly cà phê đá rồi ngồi nhìn cảnh tượng hoang tàn mà lòng ngổn ngang trăm mối… Bàn bên cạnh mấy ông lớn tuổi mắt xớn xác nhìn ngang nhìn dọc rồi kể cho nhau nghe về chuyện mấy anh em thương phế binh ở Quân y viện Cộng hoà bị Việt Cộng đuổi ra khỏi bệnh viện đã rút kíp lựu đạn để mấy anh em cùng chết, rồi một trung đội nhảy dù dưới quyền chỉ huy của viên Thiếu Uý đã anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng và họ đã chừa viên đạn cuối để tự kết liễu cuộc đời của những chiến sĩ hào hùng đó. Ngày tháng đó … tôi nhớ mãi những dằn vặt thao thức, những âu lo sợ sệt, những căm thù uất hận, những tức tưởi ngỡ ngàng:
Ta đứng đó lặng nhìn thành phố chết,
Bao hờn căm u uất bỗng dâng trào …
Lặng nghe lòng thổn thức những thương đau …
Ôm mặt khóc, Trời ơi mình chiến bại !?
Tôi mua một ổ bánh mì rồi kêu một xị “ Nước mắt quê hương” ngồi nhâm nhi một mình … Ôi nước mắt quê hương tên gọi của rượu đế Việt Nam sao mà thấm thía đến thế. Nước mắt quê hương đang thấm dần vào người tôi, một cái xác không hồn, gật gà gật gù như đang suy nghĩ đăm chiêu nhưng thực ra lúc đó có nghĩ gì được đâu dù thỉnh thoảng một ý nghĩ thoáng qua trong cái đầu óc hoang mang. Họ là những anh hùng, anh hùng vô danh không tên tuổi nhưng thực sự là những anh hùng, anh hùng hơn những Tổng thống, tướng tá bỏ thành bỏ dân chạy quên tên tuổi … còn mình ngồi đây uống rượu chẳng biết tính sao đây? Tôi không đủ can đảm để tự bóp cò súng bắn vào đầu nhưng chấp nhận chết đứng như một Từ Hải chứ không chịu bỏ chạy, không chịu xuống tàu khiến vợ con sau này buồn phiền trách móc không ít và đó cũng là một trong những lý do nàng đã chia tay mà tôi không hề phiền muộn hay trách cứ gì nàng …
Buổi sáng ngày 29 tháng tư, khi từ nhà đến chỗ vợ con tôi ở thấy dòng chữ nguệch ngoạc viết vội trên cửa “Anh xuống tàu Long Hồ ở bến Bạch Đằng gấp. Em và các con đang chờ ..!”. Tôi choáng váng, đầu óc suy nghĩ lung tung. Nếu tôi đến không kịp thì vợ tôi đã bỏ tôi để ra đi … Tại sao lại phải đi” Ý nghĩ lẩm cẩm đầy tự ái của một anh chồng “Việt Nam” khiến tôi bực dọc mà sau này tôi mới thấy là không đúng lúc của tôi. Tôi cũng ra bến Bạch Đằng khúc gần Hải quân Công xưởng thuê một chiếc xuồng nhỏ ra cập sát vào bên hông tàu. Cả gia đình bên ngoại vui mừng kêu tôi lên tàu nhưng thay vì bước lên thì tôi lại chỉ tay kêu vợ tôi xuống. Cả nhà chựng lại không hiểu tại sao tôi lại làm vậy, ngay cả bay giờ tôi cũng không hiểu nữa là … Vợ tôi biết rõ tính tôi nên bù lu bù loa vừa mếu máo vừa bế mấy đứa con tôi xuống. Mấy dì nó thấy vậy cũng leo xuống theo rồi ông ngoại mấy cháu cũng xuống theo. Bước lên bến, ông ngoại và mấy dì nó chẳng nói chẳng rằng bỏ đi một mạch. Tôi hiểu nỗi buồn giận mà chẳng biết làm sao! Mấy năm sau gia đình bên ngoại của tôi xuống Bạc Liêu mua thuyền đi đánh cá mới vượt biên được, vợ tôi dẫn thằng con trai lớn giả lấy củi ở bờ biển lên ghe được, còn dì Mỹ Nhung dẫn 4 đứa con gái còn nhỏ ngồi chờ nhưng bị động nên ông ngoại nó quyết định phải đi rồi tính sau. Nghe nói nhà tôi thấy mấy đứa con bị bỏ lại đã nhảy xuống bể, cậu nó phải vớt lên. Tội nghiệp vợ tôi, sang Mỹ rồi mà còn phải nằm ở bệnh viện tâm thần một thời gian khá lâu … khiến tôi ân hận mãi cho đến năm 1990, nhà tôi mới bảo lãnh các cháu sang bên Mỹ, tôi mới như trút được nỗi ưu phiền đeo đẳng bấy lâu ... Cho đến bây giờ và mãi mãi về sau, dù đã “chia tay hoàng hôn”, tôi gọi là chia tay hoàng hôn vì gần cuối cuộc đời mà lại chia tay … nhưng tôi sẽ nhớ nàng suốt đời và không bao giờ quên được những ân tình mà nàng đã dành cho tôi ..!
TRONG NHỮNG GIỜ PHÚT SÀIGÒN HẤP HỐI đó, tôi đã quyết định ở lại. Lẽ nào cả một chế độ lại suy xụp mau chóng như thế này sao? Tôi không tin điều đó nên quyết định cùng với một số anh em tìm về miền Tây xem còn nơi nào chiến đấu mình sẽ vào đó chiến đấu tới cùng. Trong khi bà con chạy ngược lên Sài Gòn ra hướng biển thì tôi và Phan Lạc Giang Đông chạy ngược xuống Long An … để rồi cuối cùng thì chẳng còn gì, còn gì nữa đâu khi tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát đúng nghĩa của một viên tướng thủ thành như các danh tướng Phạm văn Phú, Trần văn Hai, Lê văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ của quân lực VNCH.
Gươm đàn hề nửa gánh,
Sầu cố quốc khôn khuây …
Nam nhi hề chi chí,
Vuốt mặt luống đoạn trường …!
Những ngày tháng buồn phiền, hoang mang lo sợ của anh em quân nhân công chức VNCH sau 1975, nhất là khi cái gọi là “chính quyền cách mạng lâm thời” ra thông cáo kêu gọi đi trình diện. Anh em chúng tôi ngồi la liệt trong sân sau của Toà Đô Chánh Sài Gòn, mỗi người một tâm trạng không nói ra nhưng ai cũng hoang mang lo sợ. Tôi ngồi bên mấy người bạn, anh em ngao ngán nhìn nhau. Thấy tôi ngồi hút thuốc lá liên tục hết điếu này đến điếu khác, ai cũng hỏi Phạm Trần Anh tính sao? Tôi cười hề hề… đã đến lúc này còn tính sao nữa. Chấp nhận thương đau tới đâu thì tới. Khi đi trình diện mỗi người phải kê khai lý lịch“Ba đời của gia đình” và 3 người bạn thân nhất. Trời xui đất khiến sao đó, tôi đem ngay ông cậu em bà ngoại của tôi trước theo Việt Minh sau trở thành đảng viên cộng sản đã chết ở Côn đảo vào lý lịch. Tôi lại khai 3 người bạn thân thực ra là chỉ nghe tên chứ có quen biết gì đâu là Trần Quang Long, Phan Duy Nhân và Trần Triệu Luật trước 1975 là những sinh viên CS hoặc khuynh tả thân cộng tôi cũng không rõ lắm. Tết Mậu Thân cả ba đã vào mật khu của MTGPMN đã chết rồi thì lấy ai mà kiểm chứng đây?.
Chúng tôi ai cũng ít nhiều lo lắng nhất là lúc chờ đợi gọi tên từng người vào trình diện thật lâu mà không thấy ra nên lo sợ không biết số phận người anh em mình ra sao? Đến lúc gọi tên tôi vào trình diện tôi mới vỡ lẽ ra. Vừa bước vào phòng tôi thấy một anh Việt cộng xanh xao gầy còm không còn bám cành đu đủ nữa mà ngồi chồm hổm kiểu nước lụt trên cái ghế trước mặt là cái điếu cày thuốc lào loang lổ vết bẩn trên bề mặt ống tre. Ông ta không nhìn tôi mà cúi mặt đọc từng chữ trên tờ khai lý lịch của tôi một hồi lâu mới cất tiếng hỏi: “À, anh làm quản đốc coi tù hả?”. Tôi giật mình té ra anh chàng này chắc chắn là tù Côn đảo, Phú Quốc rồi nên bị ám ảnh bởi Quản đốc Trung tâm Cải huấn coi tù rồi, không khéo nó trả đòn thù thì khốn nạn! Tự nhiên tôi nhớ tới ông cậu em bà ngoại đi theo Việt Minh bị bắt giam ở Côn Sơn nên buột miệng hỏi:“Chắc là ông có ở tù ngoài Côn đảo...?”. Anh ta gật đầu, tôi hỏi tiếp: “Vậy anh có biết ông Lưu Chí Hiếu không?” Ông ta nói ngay như một cái máy: “Ai mà không biết anh Hai Hiếu … mà sao anh biết anh Hai Hiếu?”. Tôi trả lời ngay: “Ông ấy là ông cậu ngoại của tôi”. Nghe vậy, chắc ông ta tưởng tôi thuộc gia đình “cách mạng” đây, với tay lấy cái ống châm điếu thuốc, rít một hơi dài rồi chậm rãi hỏi: “Anh có muốn đề nghị gì không?. Trong một thoáng tình cờ, tự nhiên tôi trở thành gia đình “cách mạng” nên đã lỡ thì chơi tới luôn, tôi nói: “Đề nghị với anh cho tôi về lại Lâm Đồng”. Không nói gì, ông ta lúi cúi viết rặn ra từng chữ … gần mười phút sau mới đưa cho tôi tờ giấy chứng nhận trình diện rồi bước ra cửa trước của toà Đô Chánh. Tôi lấy bật lửa châm điếu thuốc Bastos rồi móc tờ giấy ra xem. Trên tờ giấy đánh máy quay ronéo có mấy chữ nguệch ngoạc: “Đề nghị cho anh phạm trần anh về tiếp tục phục vụ tại Lâm Đồng”. Tôi giật mình rồi mỉm cười vỏn vẹn chỉ có mấy chữ mà tôi lại trở thành gia đình cộng sản rồi! Quả nhiên khi tôi về lại Bảo Lộc, đến Uỷ ban nhân dân xã Lộc Thiện trình diện thì thấy Trần Minh Thảo trước dạy ở trường Trung học Bảo Lộc đầu đội nón cối, vai đeo túi “Xà cốt”, y ngạc nhiên hỏi tôi: “Ông còn về đây làm gì? ”. Tôi cười trả lời tỉnh queo: “Ủa sao không về bạn?”. Y xem tờ giấy chứng nhận trình diện của tôi im lặng một chút rồi nói: “Thôi ông cứ về đi ....”. Tôi biết y nói vậy chứ nghi ngờ và cay cú lắm, nhất là trong khi đi học tập ngắn hạn 10 ngày ở địa phương, tôi có sơ hở khi tranh luận với tên Ba Đạt thường vụ huyện Bảo Lộc khi y hỏi tôi là tại sao lại ghi là trí thức vô sản chân chính. Tôi nói “Hiện giờ tôi là trí thức vô sản chân chính, các anh cứ điều tra xem tôi có tài sản nhà cửa gì không trong khi các anh là giai cấp vô sản thì bây giờ nhà cửa tài sản kếch xù …”. Cuối khoá học chúng yêu cầu tôi lên phát biểu cảm tưởng thì tôi nói là:“Tôi “có tội” với nhân dân vì trong quá khứ đã “Kềm kẹp” nhân dân bằng giấy tờ khiến nhân dân “mất tự do và đói khổ hơn bây giờ…” khiến cả hội trường phì cười một cách rất ư là đau khổ..!”. Sau này, tôi được biết là có lần họp tên Thảo đưa ra vấn đề đưa tôi đi học tập dài hạn vì tôi không ra cộng tác với “cách mạng” thì bà Tám, trưởng khu 4 xã Lộc Thiện trước là một bạn hàng chợ Bảo Lộc đã đấu tranh bênh vực: “Tôi biết nó từ trước “giải phóng”, tuy nó là Trưởng ty “Ngụy” nhưng nó nghèo, vợ nó phải bán chè cho học sinh, nó đã bênh vực cho dân nghèo trong phiên họp bạn hàng chợ Bảo Lộc...”. Số là trong phiên họp do tòa Hành chánh tỉnh mời bạn hàng chợ về việc chỉnh trang chợ, tôi có nói rằng: “Bà con hãy nghĩ tới lợi ích chung là xây dựng ngôi chợ mới lớn hơn, đầy đủ tiện nghi hơn và đẹp như chợ Đà Lạt. Bà con đừng nghĩ là chính quyền bày ra để khó dễ đòi hối lộ. Xin mời bà con cứ vào Toà Hành chánh tỉnh gặp thẳng tôi, tôi bảo đảm trong vòng một tháng có giấy phép và không mất một đồng nào. Nếu ai biết hút thuốc tôi còn mời một điếu Bastos nữa ...”.
Chuyện đời nhiều khi nghĩ lại cũng thấy cảm động vui vui xem như trúng xổ số lô an ủi vậy ... Tôi còn nhớ là khi nhận lệnh bàn giao quận Tam Bình sang Minh Đức thì có 147 thân hào nhân sĩ, giáo chức kể cả nghị viên Hội đồng tỉnh ký tên vào kiến nghị xin Đại tá Tỉnh trưởng giữ tôi ở lại Tam Bình nhưng không được nên lấy nhà lồng chợ tổ chức đãi đằng ăn nhậu suốt đêm … Hầu như mấy ông Quận trưởng nào cũng không ưa tôi vì tôi là “kỳ đà cản mũi” nên quận nào cũng chỉ ở được hơn một năm thì bị đề nghị thuyên chuyển. Rời quận Minh Đức sang Trà Ôn chưa được một năm lại nhận lệnh về trình diện toà Hành chánh Tỉnh với lý do là cấp chỉ huy duy nhất ở tỉnh Vĩnh Long không gia nhập đảng Dân chủ. Tôi về tỉnh lên gặp thẳng Đại tá Trần văn Thì, tôi yêu cầu cho tôi biết lý do, tôi không tham nhũng như ai đó ... Thấy tôi lớn tiếng, ông ta gọi điện thoại cho ông Phó Tỉnh trưởng lên kéo tôi xuống. Sau đó tôi được cử đi thanh tra nghĩa là ngồi chơi xơi nước … Khi thành lập nhóm Hà Thúc Nhơn chống tham nhũng tại võ đường Hoa Lư của Vovinam của Võ sư Trần Huy Phong, tôi gặp nhà “Giám sát viện tư Ngô Xuân Thọ”, người từng tố cáo với báo chí trước 1975 rằng bố ông là Chủ tịch Giám sát viện Ngô Xuân Tích đã lấy của công 4 chiếc vỏ xe. Anh em chúng tôi quen biết và quí mến nhau nên khi nghe tin tôi bị trù dập đã viết thư giới thiệu tôi với anh Nguyễn Huy Hân, một người sạch lúc đó đang giữ chức Tổng Giám đốc Thuế vụ rằng tôi là một công chức trong sạch, có lý tưởng để cùng anh Hân chống tham nhũng. Bây giờ nghĩ lại so với bọn cộng sản tham nhũng gấp ngàn lần chế độ Việt Nam Cộng thì những “ngày xưa thân ái” của chúng ta cứ như chuyện phong thần vậy!
CUỘC ĐỜI CÓ NHIỀU CHUYỆN xảy ra bất ngờ ngoài sự tiên đoán của mình nên cũng nhờ vậy mà tôi mới đi tìm gặp anh em cùng chí hướng để thành lập “Mặt trận Người Việt Tự do Diệt cộng Phục quốc”. Vợ tôi lại một phen lo sợ ít nhiều buồn phiền nhưng hiểu rõ tính khí của tôi nên âm thầm chịu đựng. Nàng chỉ nói khéo với tôi là “Anh tính sao thì tính chứ ông ngoại coi tử vi nói số anh thế nào cũng bị ở tù”… 
Quả nhiên, chạng vạng chiều tối ngày 3 tháng 7 năm 1977, lúc tôi vừa hút xong điếu thuốc lào trong khi các con tôi đang quây quần dưới mái tranh nghèo sau bữa dưa muối thì cả một trung đội công an súng ống tận răng, thằng nào thằng ấy hùng hổ đầy vẻ căm thù tràn vào nhà, đè ngửa tôi ra rồi còng tay trước sự kinh hoàng của vợ và các con tôi. Cảnh tượng hãi hùng của bọn đầu trâu mặt ngựa, kẻ la người hét ấy đã được thiên tài Nguyễn Du mô tả trong truyện Kiều sao mà hay đến thế in hệt như đám công an cộng sản đến bắt người, phá nhà đàn áp dân oan Việt Nam đang diễn ra trên quê hương yêu dấu!: “Người nách thước kẻ tay đao, Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi ..!”. Tôi hiểu rõ mọi việc xem như đã “thua” rồi nên thản nhiên nói “Các anh muốn gì?” thì một tên công an nhào tới tát vào mặt tôi một cái như trời giáng rồi hằn học nói “Mày phản động, dám chống lại chúng ông mà còn lý sự hả?”. Tôi mỉm cười không nói gì. Thằng con trai của tôi đứng nhìn chằm chặp vào tên này, nó đưa tay lên lau nước mắt rồi lấy thuốc lào bỏ vào điếu cầm lên cho tôi hút. Tôi có hút được đâu khi thấy hai tay con tôi run run sao mà thương quá! Quỳnh Trâm ngây thơ hồn nhiên leo lên hai tay còng rồi ôm hôn tôi, Quốc Bảo con trai tôi dơ tay tát em nó một cái thật đau, dường như bao căm thù nó dồn vào cái tát, vừa tát vừa chửi:“ Đồ mất dậy, dã man, mày làm bố đau!”. Lúc chúng giải tôi ra xe, tôi nói với con tôi “Quốc Bảo, con nhớ lời bố dặn nhé, chào tay bố đi …” Rồi tôi không đủ can đảm nhìn lại nữa…! 
Trời chiều bỗng như tối xầm lại, bóng tối bắt đầu phủ chụp xuống trên đỉnh đồi chơ vơ căn nhà sàn nhỏ. Căn nhà sàn vừa đủ cả nhà nằm thay giường đã bị chúng dỡ tung ra để tìm kiếm tài liệu, đào nát cả vườn để tìm súng ống. Làm sao tôi có thể quên được cái cảnh cả nhà vợ con la khóc như ri chạy theo khi chúng còng tay tôi dẫn ra khỏi nhà. Bóng tối phủ xuống đỉnh đồi như che kín cả tương lai gia đình tôi … Làm sao mà người vợ trẻ đang bụng mang dạ chửa cùng 4 đứa con thơ dại chịu đựng nổi sự kinh hoàng não lòng đứt ruột trong bóng tối hãi hùng khi màn đêm buông xuống … rồi cuộc đời còn lại, các con tôi sẽ no đói sống chết ra sao ..!?
Ngày tháng đó buổi ta đi em khóc ..
Ngỡ nghìn trùng sông núi cách ngăn nhau ..!
Đừng khóc nữa em yêu xin đừng khóc ..
Thêm đau lòng vương vấn bước ta đi ..!
Lời sông núi ta đi theo tiếng gọi,
Vì tự do ta quét sạch bóng thù ..
Vì hạnh phúc nhân dân thề tranh đấu,
Không có gì ngăn nổi bước ta đi ..!
Không có gì ngăn nổi chí nam nhi ..!
TÔI BỊ BỊT MẮT hai tay còng quặt ra sau lưng rồi hai tên công an đi kè hai bên đẩy tới trước, mình đi theo như một cái xác không hồn. Không biết cuộc đời sẽ đi về đâu, một ý nghĩ chợt loé lên “Đã tới nước này rồi thì kệ nó tới đâu thì tới, chết là cùng chứ gì ...”. Vừa bị đẩy vào phòng thì nghe tiếng quát, giọng Bắc kỳ đặc sệt: “Địt Mẹ mày, giờ này mà còn phản độngđể tao xem gan mày to bao nhiêu mà dám chống lại chúng ông, úp mặt vào tường, khẩn trương lên”. Bất thình lình một báng súng như trời giáng vào lưng, đau nhói tá hoả tam tinh. Chưa kịp hoàn hồn thì những cú đấm, cái đá dồn dập, tôi lảo đảo té xấp vào tường không biết gì nữa …
Đêm xuống cái lạnh buốt giá của hơi sắt cùng với mùi hôi tanh xen lẫn khai khai của nước đái làm tôi tỉnh lại tự lúc nào chợt thấy người ê ẩm, hai tay bị còng ra đằng trước, hai chân thò ra ngoài cùm run lên vì lạnh, nhìn mãi cũng không nhận ra nằm ở đâu, định thần nhìn lại mới thấy chung quanh lờ mờ không hơn 2 thước vuông. Tôi chợt nhận ra là mình đang nằm trong cái thùng sắt mà ngày xưa thường gọi là cô nếch là cái thùng đựng hàng mà bây giờ gọi là container loại nhỏ … tàn dư của “đế quốc Mỹ” đây mà!. Đêm lạnh cóng ngày thì hơi nóng của cái hộp sắt kín mít như một lò hấp người. Hôm sau chúng giải tôi lên Trại tạm giam Đà Lạt nguyên là trung tâm thẩm vấn của chế độ cũ. Tôi bị đẩy vào một xà lim nhỏ khoảng 2m.1m4 và cao khoảng 2 m. Nằm ngửa chân tay xiềng xích, mắt nhìn thẳng lên cái trần bêtông ở giữa có khoét một lỗ vừa đủ thò ra một cái bóng đèn tròn rọi thẳng vào mắt. Tôi chợt hiểu đây chính là đòn tra tấn nhẹ nhàng cân não làm mắt mình mỏi mệt, cộng với chính sách bao tử cho ăn cầm hơi để cho tù đói ăn khát uống, tinh thần sẽ suy xụp để chúng dễ bề khai thác đây mà … Tôi đã chuẩn bị kỹ lưỡng những gì chúng biết thì mình cứ từ từ khai như có vẻ “thành khẩn” khai báo như chữ thường dùng của Việt cộng và một số chi tiết dự phòng khi bị tra tấn thì làm như đau quá chịu không nổi phải khai ra để chúng cho là “thật” nhưng đã được chuẩn bị trước. Quan trọng nhất là đã khai lý lịch rồi, khai điều gì rồi thì phải nhớ nằm lòng, phải tử thủ, khai đi khai lại cũng trước sau như một. Chứ trật hoặc thêm một chi tiết nào là đời khốn nạn liền. Chúng cứ nắm lấy những sơ hở rồi lấy cung liên tục để moi ra cho bằng được. Khi chúng đưa ra những lời khai của người khác là phải phủ nhận và đòi đối chất với người đó ngay để chứng tỏ mình khai thật và cũng là cách để mình hoãn binh chi kế rồi tính sau…
Tôi đắc ý mỉm cười nhưng nằm ngửa suốt cả ngày, mệt mỏi rã rời, bụng đói cồn cào nhưng cái cảm giác khó chịu nhất là mắt hoa lên, dường như tấm đan bêtông trên trần nhà thấp lè tè như đang ụp xuống đè lên người tôi … Cái khó chịu nhức nhối ám ảnh mà bây giờ sau mấy chục năm vẫn còn ám ảnh, không thể nào quên nổi và cũng chẳng có ngôn từ nào có thể diễn tả được. Thế nhưng cũng chính thời gian đó tôi làm được 4 câu thơ đầu tiên trong đời mà tôi không bao giờ nghĩ rằng tôi lại có thể làm thơ được..!
CHÍNH MI ..!
SAU NGÀY MẤT NƯỚC, đi đâu nhìn lên tường cũng nhìn thấy hàng chữ đỏ lòm “Đời đời nhớ ơn bác Hồ vĩ đại” khiến nhức đầu nhức mắt ấm ức vô cùng. Được rồi mày “ Đời đời.. nhớ bác Hồ” thì tao “ Muôn năm .. muôn năm … hận cáo Hồ” .
Hai tay còng số tám,
Chân cùm kiểu Liên Xô ..
Đái ăn nằm một chỗ ..
Muôn năm hận cáo “Hồ” ...!
Không phải chỉ riêng tôi mà hầu hết nhân dân Việt Nam cả ngoài Bắc lẫn trong Nam sau này đều bị ám ảnh bởi 3 chữ Hồ Chí Minh, mở miệng ra là Các Mác là Lê Nin, là Bác Hồ vĩ đại, là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại mà tôi cứ nghĩ là “rồ dại”, sống mãi trong sự “thất nghiệp” của chúng ta …! Tự nhiên tôi nhớ tới lão tướng Phan Khôi trong Nhân văn Giai phẩm năm nào … Phải rồi Chính mi, chính mi Chí Minh ơi ..!
Chính mi bán nước Chí Minh ơi
Chính mi cõng rắn cắn nòi Việt Nam
Chính mi gây cảnh tương tàn
Nồi da xáo thịt ngập tràn máu xương ...!
Gây bao nhiêu cảnh tang thương
Muôn dân đồ thán thê lương khốn cùng
Mai này Cộng sản cáo chung
Đào Lăng quật mộ gian hùng Chí Minh ...!
Sau khi xử án chúng chuyển anh em chúng tôi về trại Đại Bình. Chúng tôi bị đưa vào dãy xà lim mới xây cất hết sức kiên cố mà chúng tôi thường gọi đùa là Tứ giác đài. Tiêu chuẩn xà lim kỷ luật là nhà nước “no” cho mỗi tháng 7 kí lô thực phẩm gồm cả gạo mốc mủn lẫn khoai lang, bắp, khoai mì mốc meo lên màu chạy chỉ đen có, xanh có xen lẫn vàng khè … thì làm sao mà “lo” cho được? Làm sao có thể thưởng tượng được là trong tận cùng đau khổ, trong cái tận cùng của đáy địa ngục nơi mà “Mười người chết bảy còn ba, chết hai còn một mới … ra khỏi tù ..!” thế mà sống sót được cũng là một sự nhiệm màu! Chuyện kể hơi “mất vệ sinh” một chút nhưng cũng xin viết ra cho vui. 
Số là, những ngày mới vào xà lim là lo mọi chuyện trên đời kể cả việc đi vệ sinh lấy gì mà lau đây. Mình là người văn minh lịch sự mà nên chỉ có cách lấy răng xé cổ tay áo mà là áo cũ mới được chứ áo mới thì thông cảm đi nhưng mấy ngày sau, cả tuần rồi 2 tuần mới đi “Tham quan lăng Bác” chữ anh em tù thường dùng vì quá căm thù nên cũng thông cảm. Lý do thật đơn giản là mỗi tháng chỉ có 7 ký lô gram thực phẩm, tính ra mỗi bữa chưa được lưng chén nhỏ thì ăn bao nhiêu tiêu hoá hết lấy gì mà thải ra mà nói ngọng kiểu dân địa phương ở miền Bắc là “no” với không “lo”...
Viết đến đây tôi lại nhớ tới chuyện K’ Breo hồi còn nằm xà lim “Tứ giác đài” ở Đại Bình mà cười ra nước mắt ... Chúng tôi 5 người nằm ngửa chờ chờ trong xà lim, hai chân bị cùm bằng chiếc cùm gỗ, kiểu cùm thời Trung cổ với 2 thanh gỗ trên dưới mỗi thanh dầy 20 cm, có khoét 2 lỗ nhỏ vừa sát với cổ chân bình thường nên ai chân to thì tha hồ mà khốn nạn. Thế rồi, mọi việc cũng qua đi, một thời gian chân teo lại thì vừa tuốt tuồn tuột .. khỏi lo. Khốn một nỗi, thời gian đầu mới cùm bị ngứa ngáy vô cùng, ấm ức vì cựa quậy không được nhưng ngứa quá thì cũng phải ráng mà nhúc nhích một chút. Đặc biệt của loại cùm này là hễ cử động nhúc nhích là bị trầy sát chảy máu làm lở lói khiến cả phòng ngửi thấy mùi tanh. Sở dĩ phải nằm ngửa chờ chờ vì 2 lỗ cùm cách nhau hơn nửa thước nên 2 chân banh ra, không bao giờ nằm nghiêng được gần bảy năm trời. Thế nên kẻ hèn này mới xuất khẩu thành thơ nhưng không phải “xuất” một lần đâu mà gần 7 năm sau mới ra mấy câu thơ con cóc “Bẩy năm mơ giấc ngủ nghiêng, ngày qua đêm tới xích xiềng cùm chân ..” đó quí vị ạ .. Số là mấy hôm nay cứ nghe K’Breo nó kêu “ Ai đi tham quan lăng Bác không đậy nắp sao mà thúi quá!”. Mỗi lần đi tham quan chúng tôi phải lấy 2 tay chống xuống sàn xi măng, anh bạn tù bên cạnh lấy tay đẩy cái hộp gỗ vuông mỗi bề 25 cm vào, bên trong đựng mọt cưa, cố gắng ngồi lên trên rồi tha hồ mà “làm thơ” … Xong rồi kéo ra đậy nắp lại. Quí vị thử xem có tưởng tượng nổi không nào ..? 
Chúng tôi sống nhờ cái hộp phân trộn lẫn với mạt cưa đó. Hồi đó chúng tôi được vinh hạnh ngày ngày 2 lần cơm canh “Đại Dương” thì cụ Phạm Xuân Thái trước lo việc vệ sinh lấy thùng phân ra rồi đổ mạt cưa vào đem vào. Mỗi lần chỉ khoảng 5 phút là xong, khi bọn cán bộ trực trại ra rồi thì anh em vội mở nắp thùng phân ra, bơi móc dưới lớp mạt cưa lấy ra một khúc mì dài khoảng 10-15 cm dính đầy mọt cưa lẫn “phân” chia nhau mỗi người một miếng rồi ăn tươi nuốt sống, bất kể … Nói thế là quí vị hiểu rồi. Cụ Thái, một con người lý tưởng, tiên phong đạo cốt, gầy gò như khô mộc đại nhân và cao lỏng khỏng trước từng làm bộ trưởng Thông tin thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông cụ chắc nay đã thành người thiên cổ rồi nhưng tôi biết một điều là cụ rất vui và tin tưởng vào ngày chiến thắng cộng sản vì đã thấy anh em chúng tôi đứng lên chống Cộng sản. Một buổi tối anh Đảo tự nhiên bị “thượng thổ hạ tả” vừa ói vừa đi cầu, chú Lựu lên tiếng báo cáo cán bộ có người đau nặng. Kêu gần khản cả tiếng mà chẳng thấy ma nào. Chúng tôi biết là chúng nó vẫn đứng đâu đó thôi, nếu thử trốn ra xem là nó bắn liền. Chú Lựu gào lên thì một thằng chèo mở cửa ra chửi chúng tôi “Địt mẹ chúng mày ai cho chúng mày ốm mà thuốc với men. La nữa ông bắn bỏ mẹ bây giờ.”. Mấy anh em tức quá mình đau xin thuốc mà nó chửi ai cho mình đau, thật vô lý .. Tôi bảo “Đóng cửa lại, nếu mai xảy ra chuyện gì thì cán bộ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Cán bộ đừng ăn nói mất dậy như thế.”
Không biết nó báo cáo thế nào mà sáng hôm sau tên Thái trực trại vào đánh chúng tôi. Hai chân bị cùm thò ra ngoài, nó lay chân đạp xuống rồi đánh xuống mắt cá, lát sau nó lại đạp chân đánh vào con khoai. Cái kiểu đánh tra khảo, vừa đánh từ từ hỏi rồi đánh tiếp đau đớn vô cùng đến độ vãi đái ra, tức quá nước mắt trào ra. Tôi ngồi bật dậy thì nó lấy chân đạp thẳng vào ngực té bật ngửa xuống sàn cùm. Tôi thách thức la lớn “đồ vô nhân đạo” hi vọng nó tức đánh vùi cho mình xỉu cho nhẹ tội nhưng không xỉu được mới đau chứ!
Mấy anh em lo vệ sinh đứng ngoài nghe thằng Thái đánh từng cái một theo lối tra khảo mà đau lòng chảy nước mắt. Tôi cắn răng chịu những cái đánh bằng chốt sắt cửa xà lim vào mắt cá, rồi con khoai. Hai chân sưng vù lên bầm tím mà tên Thái cán bộ trực trại còn cấm uống nước 3 ngày. Chúng tôi phải đái ra lay tay thấm vào miệng cho đỡ cơn khát và còn lấy nước đái xoa bóp mắt cá con khoai. Ông cụ thấy tôi không chịu nhận khuyết điểm lớn tiếng với cán bộ tối hôm qua. Đợi khi tên cán bộ đi ra, ông cụ lau nước mắt nói vội với tôi: “Muốn lo đại sự ông phải biết uyển chuyển, linh động một chút. Đừng bao giờ lấy gươm báu mà chém bọn ruồi muỗi tôm tép này … ông chết đi thì ai lo đây, lúc đó ông là kẻ có tội chứ làm anh hùng gì chấp nhất gì với bọn tép riu này..!”. Hai chân anh em tôi ai cũng sưng vù lên nhưng thật nhiệm màu cũng nhờ nằm cùm hai chân đi dớ dầy loại nhà binh nên không bị dập gãy gì. Cả tháng sau lấy tay ấn vào mắt cá như dẹp ra và còn thấy đau … Tôi còn nhớ cũng ở xà lim Đại Bình này còn có một ân nhân nữa là anh Yến, Phó Ty Thuế vụ Lâm Đồng và anh Liễn người Huế, y sĩ thiếu tá làm y tế trại đã nói nhỏ với tôi một câu ân tình: “Chừng nào có moi thì toi mới khai bệnh, chích thuốc nhé … Phạm Trần Anh!”. Tôi chợt hiểu và thâm tạ, vô cùng thâm tạ những quí nhân nơi tận cùng địa ngục này.
Trong xà lim gần 9 năm trời thì nói gì đến chuyện vệ sinh hay không, đại khái 9 năm không đánh răng đánh lợi gì cả, khoảng 1,2 tháng tắm rửa sạch sẽ một lần. Tha hồ mà thoải mái, thoải mái đến nỗi da mấy đầu ngón tay, đầu ngón chân do nằm trong bóng tối, không một chút ánh nắng mặt trời nên da mỏng dính, hơi gãi một chút là máu chảy da rơi rụng liền. Đặc biệt phần da kế cạnh móng chân cứ ngày một dầy ra và thối kỳ lạ nên hấp dẫn mấy đồng chí dán kiến vô cùng. Có lần buổi sáng dậy, thấy hơi xót ở đầu ngón chân, cúi xuống thì thấy chỗ da đầu ngón chân đã vạt đi một miếng. Định thần cúi xuống nhìn cho rõ thì thấy rướm máu tươi, té ra mấy đồng chí dán thấy mùi hấp dẫn nên đến “chiếu cố” nhấm nháp thưởng thức thế thôi nhưng bị chúng tôi vừa tức giận vừa cười chửi: “Cha chả, chúng mày là loài sâu bọ tiếp tay cho CS hành hạ chúng ông à!”.
 K’ Breo cứ kêu hoài, tìm mãi không hiểu vì sao có mùi “dễ ngửi” cho đến một hôm khoảng 2 tháng sau, cả xà lim được đi tắm và làm vệ sinh xà lim. Lúc làm vệ sinh hầm cầu, mở nắp ra thấy quá trời là mối. Tôi chợt hiểu té ra là mỗi chiều tối thỉnh thoảng có mấy chú mối bay vào, vô phúc cho chú mối nào bay gần K’ Breo là bị Breo chụp ấy đưa vào miệng sơi tái liền. Mấy chú mối này sau khi ăn no nê ở ham phân bị nhét vào miệng nên chỉ mình K’ Breo thấy thối nhiều vì môi dính đầy phân…!
Bây giờ mới nghiệm ra là chuyện gì trên đời này mình tính nhưng thành bại đều do ý trời hết. Chúng tôi đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho một cuộc vượt ngục sau mấy năm trời nghiên cứu tính toán. Tất cả đã sẵn sàng và hẹn nhau chờ trời đổ trận mưa đầu mùa là quyết định “du lưu” liền, chấp nhận đánh đổi cuộc đời cho số mệnh rủi may nhưng một buổi sáng, mưa đâu chưa thấy thì được lệnh dọn đồ chuyển trại … Tôi đã để lại đầy đủ lương khô cho mấy anh em Thượng còn lại nên họ đã vượt trại ra được ngoài rồi nhưng bị bắt lại trong rừng sâu do quá kiệt sức vì bị cùm còng lâu ngày. Anh em quen đi rừng mà còn bị kẹt huống chi thư sinh chân yếu tay mềm như tôi thì làm sao mà vượt thoát được, chắc là bỏ mạng sa trường đâu đó rồi. Nhắc lại chuyện cười ra nước mắt này lòng tôi xốn xang vì khi chuyển trại về Xuân Lộc, mấy tháng sau thì nghe tin chú em nó bị bắn chết khi vượt ngục. Thấy tội nghiệp nhưng cũng thấy như thế mà hay còn đỡ khổ hơn là bị bắt lại, bị tra tấn và cùm chân tay “mút mùa lệ thủy” sống thoi thóp ngắc ngoải trong xà lim nơi tận cùng địa ngục trần gian này … cho đến chết ..!
THỜI GIAN Ở TRONG TÙ, Tú Kếu có làm bài thơ tuy lấy tên là “Vô đề” nhưng đó là tiếng kêu bi thương, lời phản kháng trước những hành động phi nhân của những con người vô cảm vô hồn cộng sản. Làm sao mọi người chúng ta có thể biết được cộng sản dã man vô nhân đạo đến chừng nào nếu không có những chứng nhân của lịch sử. Tú Kếu là một chứng nhân sống đã từng chứng kiến cảnh chúng tử hình những người anh em của mình. Chính Tú Kếu đã nhìn thấy cảnh anh em mình cong người lên lãnh hàng loạt đạn vào người. Khoảng tháng 8 năm 1980, anh em tù nhân chính trị đội 21 trại Đại Bình tổ chức vượt trại, một số anh em bệnh hoạn không đủ sức vượt trại nên khai bệnh ở nhà trong đó có Tú Kếu. Hồi đó mỗi đội đi lao động thường có 1 tên quản giáo đeo súng ngắn, 2 hoặc 3 tên võ trang cầm súng AK đi theo chia ra ba khúc. Theo đúng kế hoạch, anh em đã sắp xếp cho 2 anh em khoẻ đi kèm một tên cán bộ võ trang. Lúc toán đầu của đội băng ngang qua cây cầu cây Đại Bình là khúc quanh, bọn công an đi sau bị che khuất là toán cảm tử đi đầu nhảy ra chụp tên võ trang. Cũng lúc đó 2 toán sau cũng đồng loạt bay ra chụp 2 tên còn lại. Tất cả mọi tính toán đã thành mây khói do một thoáng do dự nên khi Long nhảy ra ôm tên võ trang thì tên võ trang dẫn toán thứ hai đã đi qua khúc quanh, nó nhìn thấy nên nhảy ra bắn xâu táo chết luôn tên cán bộ. Bọn công an tàn sát thẳng tay, 6 xác anh em máu me đầy người nằm ngổn ngang, trong khi cả đội chỉ biết nằm úp xuống nín thở phó thác số mệnh cho sự rủi may may rủi!
Bọn cán bộ ra lệnh tập họp dẫn đội về trại, sau khi nhập trại bọn an ninh đánh đập anh em tàn nhẫn để khai thác. Tên giám thị Phi Sơn ra lệnh dẫn 4 người anh em ra khỏi trại, cả đội hồi hộp đợi chờ suốt đêm không thấy về chắc là anh em bị chúng đem đi nhốt ở xà lim. Sáng hôm sau xuất trại mới nghe anh em lao động tự giác kể lại là họ phải đi chôn 4 người anh em, tay chân bị cắt gân nhượng, đầu bị đập bể nát thê thảm vô cùng. Cả may tuần sau anh em ăn không vô, làm sao nuốt nổi miếng cơm như còn đọng ngay thực quản, không phải một con ngựa đau mà tới mười con người, mười người anh em đồng chí hướng đã tức tưởi hi sinh thảm thiết. Tú Kếu đã nghe chính một cán bộ có tình cảm với anh em tù chính trị kể lại kể lại cảnh tra tấn bằng cách lấy lưỡi lê cắt gân chân để khảo tra rồi đập đầu cho đến chết … Những cảnh tượng dã man không thể tưởng tượng được, những hờn căm u uất nghẹn ngào đã được Tú Kếu diễn tả qua bài thơ “Vô đề” chính là bản cáo trạng của cộng sản bạo tàn trước lịch sử, trước lương tri của nhân loại văn minh tiến bộ hôm nay:
Chính đêm ấy .. mảnh trăng liềm đẫm máu
Tưởng chừng như thân thể bạn bè tôi
Uốn cong lên, khi bị bắn tơi người
Miệng nguyền rủa, nhưng không còn tiếng nói
Môi mấp máy, đúng môi còn mấp máy!
Như muốn tuôn dòng … thác đổ căm hờn
Như muốn gào to … Không thể dã man hơn!
Không thể dã man hơn … quân khốn kiếp !
Thời gian xảy ra vụ thảm sát Đại Bình, tôi và linh mục Trần Thế Phiệt bị giải giao lên xà lim tử hình ở Đà Lạt lấy cung vì tội âm mưu tuyên truyền chống phá trại. Tôi viết cho linh mục Phiệt về “Đường hướng cách mạng hoá hiện đại hoá Việt Nam”, không hiểu do sơ ý thế nào mà linh mục Phiệt giấu trong cuốn giấy vệ sinh bị bọn cán bộ an ninh tìm thấy khi xét phòng. Tôi được anh em thông báo nên trong lúc cung khai tôi một mực tử thủ lời cung là chỉ viết lại để nghiên cứu bài viết chủ trương của thủ tướng Jamaica đăng trên mẩu báo nhân dân tôi nhặt được cách đây khoảng 1 năm. Lúc dọn phòng tôi để quên trong cuốn giấy vệ sinh chứ không viết để gửi cho ai cả. Tôi cố kéo dài cung cán may ra thời gian có thể cứu sống chứ lần này thì ăn gà là cái chắc … 
Sau gần một tháng trời 2 tên cán bộ an ninh thay phiên hỏi cung ngay cả giữa nửa đêm không cho tôi một lúc nào yên ... Cuối cùng, tên Truyền “cán bộ giáo dục” bí thư chi bộ trại tù tức quá chỉ mặt tôi nói: “Chắc Phạm Trần Anh sợ không sống nổi trong bốn bức tường đá nên viết lại cho Trần Thế Phiệt tiếp nối sự nghiệp chống cộng chứ gì. Tôi đã tìm đọc hết báo chẳng có thủ tướng nào cả mà chỉ có thủ tướng Phạm Trần Anh viết ra mà thôi … Tôi nói với anh lần chót, nếu anh thành khẩn khai báo thì tôi lấy danh dự bảo đảm với anh là sẽ khoan hồng cho anh. Còn nếu anh ngoan cố thì anh làm hành chánh, anh biết rồi đấy, chỉ cần vài tờ báo cáo là xong hồ sơ…”. Tôi biết là tên này lấy vụ bắn anh Quí ở hàng rào ra hù doạ thôi chứ bố bảo nó cũng không dám bắn vì chúng còn phải khai thác tìm ra anh em trong tổ chức mà chúng gọi là “đồng bọn”. Tôi nói với y là “Tôi cám ơn cán bộ nếu cán bộ dám bắn tôi để mẹ tôi bớt khổ, vợ con tôi bớt khổ vì lo lắng cho tôi ...”. Nói xong tôi xin phép đi tiểu. Tôi đánh ván bài tẩy, mình tẩy “xì” mà nên bắt luôn tẩy “sất” của y, nó chưa khai thác được cung cán thì làm sao mà dám bắn. Tôi đứng dậy đi ra gần hàng rào đứng đái thoải mái. Đái xong tôi đứng đó thoải mái nhìn lên ngọn núi Đại Bình nổi bật trên nền trời xanh như chờ đợi loạt đạn kết thúc đời mình nhưng chẳng thấy động tịnh gì, mấy phút sau thì nghe y kêu lớn “Thôi về phòng”. Không khai thác được gì nên Trại quyết định giải giao lên Ty Công an Đà Lạt. Tên giám thị Phi Sơn tuyên bố trước trại là chung thân mà còn chống thì tử hình, các anh chống mắt xem thằng Phạm Trần Anh có trở về không? 
Một năm sau, chúng tôi được đưa về lại trại Đại Bình trước sự mừng vui của anh em trong lúc ban giám thị trại tức tối ra mặt. Mỗi lần trại báo động là bọn võ trang chạy tới mở cửa sổ xà lim kêu tên tôi “Phạm Trần Anh ngồi dậy” rồi chúng chĩa súng thẳng vào ngực tôi rồi lên đạn AK nghe xoạch một cái khiến cả phòng xanh máu mặt. Bản thân tôi lúc đó cũng choáng váng nhưng rồi chúng lại đóng cửa sổ lại, từ đó một tháng khoảng 4,5 lần chúng khủng bố tinh thần tôi liên tục mỗi khi có tiếng kẻng báo động. Chính vì vậy anh em nhắn vào nói tôi phải cẩn thận, có đau ốm thì đợi bác sĩ phe ta vào chữa trị đừng khai báo gì với y tá trại .. Tôi vẫn bình thản chấp nhận vì tin vào cái số chưa chết của mình, đã hai lần thoát bản án tử hình trông thấy mà chính tôi cũng không ngờ là tôi có thể qua được …
TRONG CÁC TRẠI TÙ CỘNG SẢN có lẽ tên giám thị Phi Sơn là một tên khát máu nhất mà theo nhà tội phạm học Lombroso thì y quả là loại người “Sát nhân bẩm sinh”. Phi Sơn là bí danh của y còn tên thật là gì thì không ai rõ, bí danh này có từ khi y còn là trưởng ban ám sát tỉnh Lâm Đồng, một tay y đã giết biết bao nhiêu quân nhân viên chức VNCH và cả đồng chí của y nữa. Dáng người dị dạng cao lều khều, lúc đi lưng hơi còng, cặp mắt đỏ ngầu sâu hoắm, đôi lông mày rậm và gò má nhô lên, mặt lạnh như tiền, hai hàm răng lúc nói chuyện san sát như nghiến lại nên dường như tù nhân nào cũng không dám nhìn thẳng vào mặt y. Trong lúc uống rượu cao hứng say sưa kể lại chính tay y đã giết không biết bao nhiêu là người … Nghe nói có lần y bắt một viên đại uý ở chi khu Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng thì phải, sau khi đánh đập tra tấn không khai thác gì được, y trói hai tay vào một gốc cây rồi khoét 2 mắt cho máu chảy ra để kiến bu lại, đến khi quân ta tìm được thì xác đã thối rữa, dòi bọ bò loan nhổn, ruồi kiến bu quanh! Chính ông cựu Tổng trưởng Thông tin Phạm Xuân Thái đã kể cho tôi nghe về cách đối xử “nhân đạo” đầy tình người của y đối với những người tù bệnh hoạn ốm đau. Số là phe ta ở các trại, sau một thời gian lao động khổ sai ai cũng đau ốm không nhiều thì ít. Khi khai ốm, mang chăn mền lên phòng “tắm hơi” là một nhà nhỏ, che và lợp bằng tôn nên buổi trưa dù ở Bảo Lộc vẫn nóng mồ hôi nhỏ giọt. Tiêu chuẩn mỗi người được lưng chén cháo, một lon guigoz nước mỗi ngày. Trưa hôm đó, không thấy nhà bếp phát cháo, anh em xôn xao ngơ ngác hỏi thì biết đó là lệnh của “Ban Phi Sơn” chỉ cho anh em một chén nước luộc củ mì. Lúc sắp điểm danh vào phòng, tên trật tự Tường được lệnh thu hết gậy chống, mùng mền và nói ai đi được thì đi, không đi được thì bò về phòng. Nếu không về tối nay không bảo đảm tính mạng. Ai nghe cũng lạnh người vì vốn biết tên này giết người không gớm tay chút nào. Thế là chẳng ai bảo ai đều nằm xuống bò lê bò lết, kẻ trước người sau giống như cái trò thể thao “khuyết tật” bây giờ. Thật là cười ra nước mắt, trông cảnh này ai mà không thương nhưng cũng thấy tức cười vì trong đó cũng có một vài anh em mình cũng giả ốm để gặp nhau nói chuyện đỡ buồn ..!.
Năm ngoái, một anh hình như là cảnh sát đặc biệt ở tù lâu quá, khi lên cơn chửi rủa Hồ chí Minh thậm tệ. Phi Sơn bắt lên, chính tay y lấy kìm bẻ gẫy mấy cái răng máu me đầy mồm, anh bạn mình chỉ kịp la ối một tiếng rồi ngất đi. Tên giám thị gian ác cười ha hả rồi chửi “Địt mẹ mày, sao mày không chửi bố mày mà chửi bác tao... !”. Anh bạn nhà mình đau quá, tá hoả tam tinh rồi hình như từ đó bớt chửi hơn, có chửi thì lải nhải trong miệng chứ không thấy gào lên la làng như trước! Tên Phi Sơn này thường cúi đầu đi lầm lũi một mình, lúc nào cũng lầm lì không nói mà đã nói ra là cùm, cùm cho nó rục xương, là giết chóc … nghe thủ hạ của y kể lại là chưa bao giờ nghe y nói thả ai ra bao giờ. Chính Phi Sơn đã ra lệnh cùm một anh cán binh chiêu hồi đến chết, khi khiêng xác ra thì thấy đầu chỉ còn trơ xương trán, sau gáy ót sau bẹt ra, người gầy ốm tong teo còn hơn dân Somali chết đói bên Phi Châu. Trại Đại Bình còn giam giữ nhiều anh em Thượng trong đó có anh K’ Jip án chung thân. Bị cùm còng lâu ngày, anh K Jip thường kêu tên y chửi nên bị cúp phần ăn không cho uống nước. Chính tên Phi Sơn đã ra lệnh cùm còng anh K’Jip cho đến chết không tháo cùm còng. Cuối cùng chịu không nổi anh đã chết vì suy kiệt, khi anh em tù vào khiêng xác thì thấy chỉ còn một hình nhân với bộ xương cách trí, ống quyển và chân sưng lên lở loét đỏ lòm dòi bọ bò lổm ngổm. Lúc anh em bước vào nâng người anh ta dậy thì nền xi măng nhám nhúa kéo lại mảng da lưng bầy nhầy máu mủ đông đặc ... Tên cán bộ một tay bịt miệng một tay mở khoá không được vì rỉ sét lâu ngày nên bảo anh em lấy xà beng vào tháo giỡ cả cái cùm, lấy chiếu bó lại rồi đem đi chôn cùng với người anh em tù xấu số này …! Suốt mấy ngày cả trại anh em ai cũng ngơ ngác đau không ai muốn nói với ai điều gì, chỉ biết thở dài ngao ngán … Không biết bao giờ tới phiên mình hắt hiu hiu hắt như anh bạn K’Jip thân thương của mình đây … Trên thế gian có còn cảnh tượng nào đứt ruột hơn nơi địa ngục trần gian này hở trời ..?

NGÀY QUC NẠN

Thích Thin Minh

Ngày 30 tháng 4 năm 75 : Quốc nạn

Ngày kinh hoàng, thế giới chẳng quan tâm

Ngày quân Cộng chiếm miền Nam

Ngày dân sống cảnh tối tăm đọa đày ...!

Ngày Cộng sản độc tài thống trị

Ngày dân lành phiền lụy âu lo

Ngày không hạnh phúc ấm no

Ngày không Ðộc lập, Tự do, Nhân quyền ...!

Ngày dân chúng Vượt biên nước khác

Ngày thi hành luật pháp bất minh

Ngày làm vỡ mộng dân tình

Ngày dân mất hẳn niềm tin già Hồ ...!

Ngày xây dựng đắp tô thù hận

Ngày bao người lỡ vận quyền cao

Ngày đời lắm cảnh gian lao

Ngày bao tầng lớp đi vào nhà giam ...!

Ngày Cộng sản ác tâm khủng bố

Ngày trả thù máu đổ phơi thây

Ngày nầy máu nhuộm đó đây ..

Ngày gieo tang tóc đắng cay hận sầu ...!

Ngày hạnh phúc vì đâu tan vỡ

Ngày trẻ thơ bỏ lỡ học hành

Ngày em xa chị xa anh

Ngày chồng xa vợ, con đành xa cha ...!

Ngày bỏ cả cửa nhà tráng lệ

Ngày vào vùng kinh tế khai hoang

Ngày thương bao kẻ thác oan

Ngày căm bao kẻ ác gian lộng hành ...!

Ngày bao kẻ cam đành hưu nghỉ

Ngày lắm tên cố vị tham quyền

Ngày người về chốn điền viên ..

Ngày tên bảo thủ trung kiên độc tài ...!

Ngày laém keû xích bài tôn giáo

Ngày nhiều tên khát máu hung tàn

Ngày người thì muốn cầu an

Ngày tên vô lại bạc vàng đô la ...!

Ngày bao kẻ tiêu pha phung phí

Ngày tiêu xài công quỹ lu bù

Ngày tên tham nhũng không tù

Ngày tên hối lộ có dù bao che ...!

Ngày đảng phái có phe có cánh

Ngày tị hiềm so sánh hơn thua

Ngày rao bằng cấp bán mua

Ngày trung “phản động”, a dua“anh hùng” …!

Ngày tham nhũng ung dung thụ hưởng

Ngày vào tù còn sướng hơn quan

Ngày tù xe cộ dọc ngang

Ngày tù ăn uống nhaø hàng rượu tây ...!

Ngày thực tế phơi bày công chúng

Ngày chánh tà sai đúng phân minh

Ngày ai vì nước quên mình

Ngày ai vì Mác Lê-nin vong nguồn ...!

Ngày ghi chép càng buồn trang sử

Ngày tang sầu chứng cứ còn đây

Ngày này sử khó mờ phai

Ngày vừa quốc nạn, vừa ngày quốc tang ...!

Ngày tù tội thân tàn ma dại

Ngày người thân chờ đợi nhớ nhung

Ngày gieo giông tố bão bùng

Ngày trời nhỏ lệ khóc chung dân tình ...!

Ngày bè lũ tập đoàn thống trị

Ngày hiện hình ác quỷ ma vương

Ngày xây hàng loạt khám đường

Ngày tù toàn quốc bốn phương tử hình ...!

Ngày hàng vạn chiến binh cải tạo

Ngày vô thần vô đạo cuồng ngông

Ngày gây tội lỗi chất chồng

Ngày thâu tài sản sung công bạc tiền ...!

Ngày Cộng sản tuyên truyền duy vật

Ngày vắng chùa, thánh thất, nhà thờ

Ngày này tôn giáo nguy cơ

Ngày cha, sư sãi, ma sơ tù đày ...!

Ngày khẩu hiệu chiêu bài yêu nước

Ngày đưa ra sách lược Mác Lê

Ngày này dân chúng chán chê

Ngày nay bạo ác hơn Lê Ngọa triều ...!

Ngày xây dựng lưỡi lê đầu súng

Ngày mị dân lợi dụng phỉnh lừa

Ngày này quyền lực hơn vua

Ngày này dân thiếu quan thừa của riêng ...!

Ngày phục vụ lợi quyền của Ðảng

Ngày dối lừa Cách mạng vì dân

Ngày toàn một lũ vô nhân

Ngày gieo đất nước muôn phần họa tai ...!

Ngày dân muốn nhắm ngay đôi mắt

Ngày sợ nhìn sự thật phũ phàng

Ngày dân rên siết than van

Ngày ngươi lạc nẻo thời gian trả lời ...!

Ngày đi ngược lòng người khát vọng

Ngày bại vong trầm trọng nặng nề

Ngày nguy khủng hoảng mọi bề,

Ngày này cán bộ ủ ê tơ vò …!

Ngày trả giá tự do bằng máu

Ngày vi phạm thô bạo nhân quyền

Ngày tham tước đoạt của tiền

Ngày sung tư hữu tài quyền còn chi ...!

Ngày Hiệp định Paris giẫm đạp

Ngày Quốc tế công pháp xem thường

Ngày gây bất ổn Ðông Dương

Ngày tên đồ tể ngoan cường phản dân ...!

Ngày xiềng xích cùm gông nô lệ

Ngày độc quyền thể chế thông tin

Ngày phi dân chủ, dân sinh

Ngày vô nhân đạo nảy sinh bạo tàn ...!

Ngày kinh tởm vô nhân cộng sản

Ngày ngoại lai vong bản tam vô

Ngày theo ma quỉ Liên xô

Ngày dùng tư tưởng “cáo Hồ” mị dân…!

Ngày áp đặt tinh thần, vật chất

Ngày tôn thờ Các Mác, Lê Nin

Ngày thần thánh hóa Chí Minh

Ngày dân làm vật tế linh tập đoàn …!

Ngày học thuyết bần hàn không tưởng

Ngày kéo dài xu hướng lỗi thời

Ngày từ hoa mỹ đầu môi

Ngày dùng ngụy thuyết người người tai ương …!

Ngày giáo dục chủ trương nhồi sọ

Ngày giáo điều cái rọ Vô thần

Ngày dung sách lược bịp dân

Ngày càng cho thấy mất nhân tính người ...!

Ngày Nhà nước khắp nơi mật vụ

Ngày bắt oan cột đủ tội danh

Ngày càng khủng bố dân lành

Ngày càng chống đối tăng nhanh lắm lần ...!

Ngày đọa đày tù nhân kinh khiếp

Ngày quyện còng xiềng xích ngày đêm

Ngày tù khám tối xà lim

Ngày tù thả ít bắt thêm chật phòng ...!

Ngày cai ngục sặc nồng mùi máu

Ngày đánh tù thô bạo dã man

Ngày tù thiếu áo, thiếu ăn

Ngày tù bệnh hoạn chết đầy trại giam ...!

Ngày chủ nhật thường làm lao động

Ngày khổ sai không chút nghỉ ngơi

Ngày tù vắt cạn mồ hôi

Ngày tù bóc lột thấu thời tận xương ...!

Ngày bắt lính lên đường nghĩa vụ

Ngày tuyên truyền quyến rũ thiết tha

Ngày đi biên giới phương xa

Ngày này ai oán “tre già khóc măng” …!

Ngày quân đội chiếm sang Miên quốc

Ngày thây phơi bỏ xác xứ người

Ngày này máu chảy lệ rơi

Ngày này vật giá gấp mười gia tăng ...!

Ngày ăn độn củ lang, củ chuối

Ngày bao người chết đói thảm thương

Ngày ăn xin khắp nẻo đường

Ngày cô nhi viện đoạn trường bỏ rơi ...!

Ngày dưỡng lão không người nuôi nấng

Ngày thương binh cam phận tật nguyền

Ngày này bao kẻ bị điên

Ngày này bao kẻ vượt biên chết chìm ...!

Ngày công lý phải im phải lặng

Ngày luật rừng cộng sản gia tăng

Ngày này duyên nợ bẽ bàng

Ngày bao góa phụ khăn tang khóc chồng ...!

Ngày kêu gọi núi sông tổ quốc

Ngày đáp lời xã tắc thiêng liêng

Ngày bao tôn giáo lên yên

Ngày sư tạm bế cửa thiền từ đây ...!

Ngày nội bộ công khai chống đảng

Ngày toàn dân mạnh dạn đấu tranh

Ngày đòi cải tổ thật nhanh

Ngày đòi trả hết quyền hành toàn dân ...!

Ngày đòi thả tù nhân chính trị

Ngày đòi tha tu sĩ lương tâm

Ngày này quốc tế quan tâm

Ngày này Cộng sản sai lầm lún sâu ...!

Ngày hải ngoại kiều bào lên tiếng

Ngày toàn dân quyết chiến ba miền

Ngày đòi đa đảng đa nguyên

Ngày đòi dân chủ, nhân quyền, tự do. ..!

(Trích Hồi Ký “HAI MƯƠI SÁU NĂM LƯU ĐÀY” Của TT Thích Thiện Minh, người Tù Lương Tâm của Việt Nam”

  TRẢ LẠI NHỮNG GÌ … 

CỦA LỊCH SỬ CHO LỊCH SỬ”

 

     Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến ngày nay. Dân tộc Việt đã phải chịu đựng gần một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, sau chiến thắng Bạch Đằng Giang lịch sử năm 938 của Ngô Quyền đã mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của dân tộc. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc bành trướng với ưu thế của kẻ thắng trận và thủ đoạn thâm độc qu quyệt đã dùng mọi phương cách để đồng hóa Việt tộc, xóa đi mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về lịch sử trong một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ. Mỗi một triều đại Hán tộc đều chủ tâm thay đổi địa danh, thủy danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề của một ngàn năm đô hộ của sự nô dịch văn hóa khiến trước đây, chúng ta chấp nhận tất cả như một sự thật mà không một chút bận tâm. Thế nhưng, lịch sử vẫn là lịch sử của sự thật dù bị sửa đổi vùi lấp hàng nghìn năm dưới ánh sáng của chân lý khách quan trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.

 

    Bước sang thiên niên kỷ thứ ba, ánh sáng của sự thật soi rọi vào quá khứ bị che phủ hàng ngàn năm bởi kẻ thù Hán tộc bành trướng. Trong thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại sửng sốt trước cái gọi là “Nghịch lý La Hy” khi trước đây nhân loại cứ tưởng tất cả nền văn minh Tây phương là của đế quốc Hy Lạp La Mã, để rồi phải xác nhận đó chính là nền văn minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ ngàng khi thấy rằng cái gọi là nền văn minh Trung Quốc lại chính là nền văn minh của đại chủng Bách Việt. 

 

     Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhìn lại toàn bộ lịch sử  để phục hồi sự thật của lịch sử để xóa tan đám mây mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù truyền kiếp của dân tộc khiến chúng ta hoài nghi về nguồn gốc của dân tộc mình. Hàng loạt câu hỏi đặt ra như lịch sử Việt với huyền thoại Rồng Tiên hoang đường huyền hoặc vì thời buổi này ai mà tin người đẻ ra trứng rồi trứng lại nở ra người?. Truyền thuyết khởi nguyên dân tộc kể rằng dân tộc ta là con cháu của Thần Nông mà Thần Nông là người Tàu nên dân tộc chúng ta cũng từ Tàu mà ra!. Trước đây, một số sách lịch sử không tìm hiểu nghiên cứu đầy đủ về truyện họ Hồng Bàng nên cho rằng dòng Thần Nông phương Bắc là Trung Quốc, dòng Thần Nông phương Nam chúng ta cùng một ông Tổ Thần Nông mà quên hẳn một điều Hán tộc là tộc người du mục thì làm sao có thể là con cháu của ông Tổ nghề trồng lúa nước Thần Nông? Rồi danh từ trăm họ, bách tính (bá tánh) và các dòng họ Việt Nam do ảnh hưởng của sự nô dịch văn hoá nên cũng cho là của Tàu, từ Tàu di cư qua Việt Nam. Biết bao vấn đề cần làm sáng tỏ vì sau gần một ngàn năm dưới ách thống trị của Tầu Hán với chủ trương thâm độc quỷ quyệt, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đã xuyên tạc bóp méo sửa đổi lịch sử để đồng hoá dân ta. Có một thực tế là sau gần một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ của giặc Tây khiến dân tộc chúng ta dường như mang mặc cảm thua kém văn minh Tàu, cái gì hay đẹp cũng nói là của Tàu, cái gì to lớn văn minh cũng bảo là của Tây… đã tạo nên cái tự ti mặc cảm của một dân tộc nhược tiểu. Ai trong chúng ta cũng đều biết rõ mình không phải là Tàu nhưng không dẫn ra những chứng cớ thuyết phục để chứng minh ngược lại. Thậm chí, ảnh hưởng của sự nô dịch văn hóa khiến một số người tỏ ra hoài nghi tất cả những gì khác cho dù đó là một công trình nghiên cứu có tính khoa học thuyết phục mà vẫn khư khư chấp nhận những nhồi nhét từ ngàn năm qua. Chính vì vậy một học gỉa thời danh ngoại quốc J. Needham đã phải viết rằng:

 

Sự thật bị che phủ hàng ngàn năm cùng với ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa khiến ngay cả người Việt cũng ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật !!!”.

 

    TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI, có lẽ không một dân tộc nào chịu nhiều mất mát trầm luân như dân tộc Việt với những thăng trầm lịch sử, những khốn khó thương đau. Ngay từ thời lập quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức mạnh của tộc người du mục đã đánh đuổi Việt tộc phải rời bỏ địa bàn Trung nguyên Trung quốc xuống phương Nam để rồi trụ lại phần đất Việt Nam bây giờ. Trải qua gần một ngàn năm đô hộ, với chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938 của Ngô Quyền mới chính thức mở ra thời kỳ độc lập của Việt tộc. 

 

    Trong suốt trường kỳ lịch sử, tuy bị Hán tộc xâm lấn phải bỏ trung nguyên xuống phương Nam nhưng nền văn hóa của Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con người Hán tộc để hình thành “cái gọi là văn minh Trung Quốc”. Chính sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên đã phải thừa nhận một sự thực là: “Việt tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy …”. Vạn thế sư biểu của Hán tộc là Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ, xác nhận tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở phương Nam. Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau:

Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo ở đó!. Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ở đấy ”.  

 

    Trong kinh “Xuân Thu”, Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha giết con, con giết cha, cha cướp vợ của con, con cướp vợ của cha, anh chị em dâm loạn với nhau, bề tôi giết chúa … Điều này chứng tỏ Hán tộc du mục vẫn còn dã man mạnh được yếu thua, bất kể tình người, bất kể luân lý đạo đức. Thế mà chính sử Trung Quốc cứ vẫn miệt thị Việt tộc là man di, các Thứ sử Thái Thú Hán vẫn lên mặt giáo hóa dân Việt trong khi Bách Việt ở phương Nam đã đi vào nền nếp của văn minh nông nghiệp từ lâu. 

 

    “Vạn thế Sư biểu” của Hán tộc là Khổng Tử cũng đã phải đem những nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền văn minh Bách Việt phương Nam đặt để thành những tôn ti trật tự, những giá trị đạo lý cho xã hội Trung Quốc. Tất cả những “Tứ thư, ngũ kinh” được xem như tinh hoa của Hán tộc đã được chính Khổng Tử xác nhận là ông chỉ kể lại “Thuật nhi bất tác”, chép lại của tiền nhân chứ không phải do Khổng Tử sáng tác ra. Chính vì Hán tộc đã lấy văn hóa Việt rồi biến cải thành văn hóa Hán rồi lại ra sức truyền bá nhồi nhét cái gọi là văn hóa Hán suốt gần 1 ngàn năm thống trị nên chúng ta cứ tưởng từ cái tết đến tiết thanh minh, tết Đoan Ngọ, tết trung Thu… là của Tàu trong khi đó chính là lễ hội của cư dân nông nghiệp chúng ta. Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi khi giới nghiên cứu đều xác nhận hầu hết các phát minh gọi là văn minh Trung Quốc từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh kim loại, kỹ thuật đúc đồng, cách làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách làm thuốc súng, kiến trúc nóc oằn mái và đầu dao cong vút … tất cả đều là của nền văn minh Bách Việt. Chính Hán Hiến Đế, vị vua cuối cùng của triều Hán đã phải thừa nhận như sau:

 

“Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ..!”.

     HƠN LÚC NÀO HẾT, tìm hiểu về huyền thoại Rồng Tiên, khởi nguyên dân tộc Việt Nam thời Lập Quốc với Quốc Tổ Hùng Vương là một yêu cầu lịch sử hết sức cần thiết. Thế hệ con em chúng ta sẽ hiểu rõ về bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Việt, về đời sống văn hoá tâm linh Việt, về những lễ tết, hội hè đình đám của dân tộc Việt. Để từ đó, thế hệ con em chúng ta sẽ thấy rõ hơn gía trị cao đẹp của bản sắc văn hóa truyền thống nhân bản Việt. Chúng ta có quyền tự hào là “con Rồng cháu Tiên” của một dân tộc có lịch sử lâu đời như  danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã  tuyên xưng: “Chỉ  nước Đại Việt ta từ  trước, mới có  nền văn hiến ngàn năm”. Chúng ta hãnh diện được làm người Việt Nam thuộc một đại chủng lớn của nhân loại để ngẩng cao đầu sánh vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.

 

     Chúng ta phải làm sao xứng đáng với tiền nhân, chúng ta phải làm gì để không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi, với anh linh của những anh hùng liệt nữ Việt Nam. Toàn thể đồng bào trong nước và Hải ngoại cùng nắm chặt tay nhau, muôn người như một cùng đứng lên đáp lời sông núi để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn gấm vóc, xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.

     Chính niềm tự hào dân tộc sẽ thôi thúc lòng yêu nước của toàn thể đồng bào Việt Nam chúng ta, nhất là thế hệ trẻ trong nước và Hải ngoại để vươn lên làm một cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ xã hội. Điều kiện khách quan của lịch sử đã tạo cho dân tộc chúng ta một thế hệ trẻ có đầy đủ tri thức thời đại để hoàn thành một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật siêu vượt, đưa đất nước chúng ta bước lên sánh vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.

 

Mùa Giỗ Tổ 4.890 Việt Lịch (2011 DL)

 

PHẠM TRẦN ANH