GIỖ TỔ
HÙNG VƯƠNG
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG 10-3 Âm lịch
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba…”
Hàng năm cứ vào ngày mồng mười tháng ba Âm lịch, nhân dân cả nước nô nức
kéo về đền Hùng để dự lễ giỗ Tổ Hùng Vương, người khai mở nước Văn Lang xa xưa
của Việt tộc. Truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây đã đi
vào tâm thức Việt như một nguồn suối tâm linh làm phong phú thêm đời sống tinh
thần của người Việt.
Ngay tự thuở xa xưa, người Việt cổ đã có một đời sống tâm linh siêu vượt.
Người Việt cổ đã sớm nhận thức được cuộc sống thường nhật để tìm ra lẽ sống của
cả một đời người nên không chỉ tin vào thần thánh mà còn tin vào chính con
người. Chính vì vậy, từ xa xưa người Việt ngoài việc thờ cúng thần linh giúp
cho cuộc sống còn thờ cả nhân thần là những người khi còn sống đã giúp dân giúp
nước, giúp ích cho địa phương. Đặc biệt người Việt có truyền thống thờ cúng Tổ
tiên, ông bà cha mẹ là những người trực tiếp sinh đẻ ra mình, nuôi dưỡng mình
thành người.
Ngay cả ông Trời, đối với người Việt là cư dân sống bằng nghề nông nên
tôn thờ ông trời đã ban cho những giọt nước mưa tưới xuống đất để hạt giống nảy
mầm, cây cối đâm chồi nảy lộc. Ông trời được dân gian Việt kêu cầu đến “Trời
ơi” mỗi khi gặp sự đau buồn, dân gian còn nhân cách hoá ông trời thân thương từ
chân trời, lưng trời đến mặt trời và nếu cần thì sẵn sàng bắc thang lên hỏi ông
trời, chứ không thần thánh hoá kiểu Hán tộc là có một ông Ngọc Hoàng Thượng đế
toàn quyền ban phát, toàn quyền sinh sát trên thượng giới và cả ở dưới trần
gian nữa.
Một nhà Việt Nam học người Pháp Léopold Cadìere đã nhận định về tín
ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt Nam như sau: “Với người Việt, Trời không phải là một vị thần, ít nhất là trong quan
niệm dân gian. Đó là ông Trời, đấng hình như thuộc về thế giới siêu việt. Hoàng
đế tế trời một cách trọng thể còn dân gian thì cầu trời, kêu trời hàng ngày
bằng ngôn ngữ thông thường. Ý niệm trời thấm sâu vào tâm tư người Việt và được
biểu lộ thường xuyên mỗi ngày qua ngôn ngữ một cách minh nhiên đến nỗi ta không
thể thấy rằng ý niệm trời chính là một nguyên lý cơ bản và cao cả nhất đối với
đời sống tín ngưỡng của người Việt”. Trong khi đó, phương Tây với nền văn minh hết duy thần, duy
linh, duy tâm, duy lý rồi duy vật thái quá khiến con người cảm thấy bất an nên
thường đặt ra những vấn nạn như chúng ta từ đâu đến rồi chết sẽ đi về đâu?
Chính những câu hỏi xa vời không bao giờ giải đáp được nên con người trở nên vô
thần hoặc phải tìm đến tôn giáo chấp nhận một cách vô thường.
Với niềm tin đơn giản chân chất
của người Việt cổ thì Tổ Tiên, ông bà cha mẹ đã sinh ra mình chứ không phải do
một thần linh nào từ trên trời. Chính vì thế phải biết ơn cha mẹ đã sinh thành
dưỡng dục mình nên người. Bổn phận con người là phải hiếu thảo với cha mẹ, anh
chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau vì cùng một mẹ mà ra. Ngay từ thuở ban sơ,
người Việt cổ đã tôn thờ nhân thần chứ không thờ thần linh như những dân tộc
khác. Thờ “Nhân Thần”, tôn thờ Quốc Tổ Hùng Vương người khai mở đất nước, tôn
thờ Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã trở thành “Đạo Lý” truyền thống của dân tộc, “Đạo
lý làm người” của người Việt chúng ta…
Truyền thuyết khởi nguyên dân tộc kể lại rằng: Cháu ba đời của Đế Thần
Nông là Đế Minh đi xuống phương Nam gặp nàng Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Năm 2879
TDL, Đế Minh phong cho Đế Nghi làm vua phương Bắc, Lộc Tục làm vua phương Nam
lấy hiệu là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh ra Lạc Long
Quân. Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ con Đế Lai dòng Thần Nông phương Bắc sinh ra
trăm trứng nở ra trăm người con trai. Năm mươi người theo mẹ ở lại phương Bắc
suy tôn người con trưởng lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương đặt tên nước là Văn
Lang, năm mươi con theo bố Lạc xuống miền sông nước “Thủy Phủ” khai hoang lập
ấp tạo thành một trăm chi tộc Việt (Bách Việt) nên bách tính (bá tánh) mà dân
gian gọi là trăm họ là của dòng giống Việt. Một trăm chi tộc Việt “Bách Việt”
của chúng ta cùng một nguồn gốc Rồng-Tiên, con của bố Lạc mẹ Âu, cùng chung một
bào thai của mẹ Âu nên chỉ có dân tộc ta mới có hai chữ “Đồng bào” mà các dân
tộc khác không có được. Chính vì chúng ta cùng một bào thai mẹ sinh ra nên đối
với mọi người, chúng ta cũng dùng tình thân mà đối xử, mới gọi nhau là bà con
cô bác như trong một nhà vậy. Trong lịch sử nhân loại, chỉ có dân tộc Việt Nam
mới có “Quốc Tổ” khai sáng nòi giống Việt. Từ ý niệm “Quốc Tổ” đã tạo thành ý
thức “Tổ Quốc” mà biết bao anh hùng Liệt Nữ đời đời tiếp nối hy sinh xương máu
để Tổ Quốc Việt Nam trường tồn mãi tới muôn đời. Chính anh linh của tiền nhân
bao đời đã kết tinh, hòa quyện thành “Hồn Thiêng Sông Núi”, mà dân gian gọi là
“Hồn Nước” u linh bàng bạc đã chở che cho dân tộc Việt bất diệt…
Người Việt có một đời sống tinh thần tâm linh sâu thẳm, thể hiện tình
cảm thiêng liêng cao cả mà không một dân tộc nào có được. Đạo lý làm người dạy
chúng ta rằng khi sống là phải biết tri ân thờ cúng ông bà cha mẹ để mai này
khi ta có chết đi thì cũng về với ông bà cha mẹ mà thôi. Từ việc hiếu thảo thờ
cúng cha mẹ, ông bà tiên tổ đến ý thức tôn thờ ông Tổ của dòng giống: Quốc tổ
Hùng Vương cũng như các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá đã hun đúc ý thức
cao độ về lòng yêu nước thương nòi, tạo cho mỗi con dân đất Việt niềm tự hào về
dòng dõi con Rồng cháu Tiên của Việt tộc. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn tôn thờ
nhân thần và đạo thờ cúng ông bà vẫn còn trân trọng bảo lưu, đó chính là bản
sắc văn hoá đặc trưng của dân tộc và cũng là đạo lý làm người của Việt tộc.
Truyền thống cao đẹp này trải qua hơn sáu ngàn năm lịch sử vẫn thấm đậm trong
lòng dân tộc với bao thăng trầm biến đổi của dòng vận động lịch sử. Cho tới nay
và mãi mãi về sau, hàng hàng lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam vẫn tưởng nhớ về cội
nguồn dân tộc với tất cả lòng hãnh diện tự hào Việt Nam.
TỰ XA XƯA, tiền nhân chúng ta đã chọn ngay mồng mười tháng ba là ngày
giỗ Tổ Hùng Vương. Tháng ba là tháng Thìn, tháng của bố Rồng và ngày mười là
ngày của mẹ Tiên nên tiền nhân đã giỗ
quốc Tổ vào ngày mồng 10 tháng 3 hàng năm1.
Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh còn có tên là núi cả, núi cao nhất 175
mét trong quần thể 100 ngọn núi ở Vĩnh Phú2. Theo Hùng triều Ngọc
phả, Thần phả xã Tiên Lát huyện Việt Trì tỉnh Hà Bắc thì đến đời Hùng Vương thứ
16 là Hùng Tạo Vương huý Đức Quân Lang mới dời đô xuống Việt Trì, Phong Châu. Hùng Tạo Vương trị vì từ năm Tân
Dậu 660 TDL đến năm Nhâm Thìn 569 TDL ngang với thời Chu Linh Vương đời Đông
Chu.
Đền Hùng gồm Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng với Lăng vua Hùng. Từ dưới đi
lên qua cổng Đền cao 8m1, nóc cổng hình dáng tám mái, hai bên là phù điêu hình
2 võ sĩ cầm đao và chùy bảo vệ đền. Khách hành hương chỉ bước lên 225 bậc đá là
lên đến đền Hạ. Tương truyền nơi đây mẹ Âu đã sinh ra bọc trăm trứng sau nở
thành trăm người con trai. Bước thêm 168
bậc thang đá là đến Đền Trung toạ lạc ngang sườn núi Nghĩa Lĩnh, theo tương
truyền thì đây là nơi Lang Liêu đã gói bánh dày bánh chưng dâng vua cha để cúng
tiên tổ nhân ngày Tết. Chính tại nơi đây, vua Hùng thường hội các Lạc Hầu Lạc
Tướng để bàn việc nước. Đền Trung thờ phượng các vua Hùng và dòng dõi, có cả bệ
thờ công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Ngay ở gian giữa đền Trung treo bức đại tự
“Hùng Vương Tổ miếu” nghĩa là miếu thờ Tổ Hùng Vương, gian bên phải treo một
bức đại tự “Triệu Tổ Nam bang” nghĩa là Tổ muôn đời của nước Nam, gian bên trái
treo bức “Hùng Vương Linh tích” nghĩa là Huyền tích linh thiêng của vua Hùng.
Bước thêm 132 bậc thang đá nữa là tới đền Thượng. Đền Thượng có 4 nếp
nhà: Nhà chuông trống, nhà Đại Bái, nhà Tiền Tế, Cung thờ. Trên vòm cung cửa
chính ra vào được trang trí phù điêu hình 2 vệ sĩ phương phi làm nổi bật bức
hoành phi 4 chữ “Nam Việt Triệu Tổ” nghĩa là Tổ Triệu muôn đời của nước Việt.
Trong nhà Đại bái có câu đối bất hủ:
Mở lối đắp nền bốn hướng non sông về một mối
Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con
Trong nhà Tiền tế đặt một Hương án trên để tráp thờ bên trong đặt một
triện gỗ hình vuông có khắc 4 chữ: “Hùng
Vương tứ phúc”. Đặc biệt có treo một bức hoành phi trong đó có câu “Quyết sơ dân sinh”3 nghĩa là
cuộc sống của nhân dân là điều quyết định đầu tiên của người lãnh đạo. Ngay từ
thời vua Hùng đã lấy dân làm gốc, Tất cả của
dân, do dân và vì dân, còn giá trị mãi đến muôn đời. Bên phải đền Thượng
là cột đá thề của An Dương Vương, bên trái đền Thượng là Lăng vua Hùng nhìn về
hướng Đông Nam, kiến trúc theo hình khối vuông, trên có cổ diêm 8 mái, đỉnh
chóp đắp hình rồng uốn lượn nổi lên 3 chữ khắc chìm: “Hùng Vương Lăng”.
Trên mỗi mặt tường đều đắp mặt hổ phù, thành bậc đắp kỳ lân, cửa chính của
Lăng nổi lên 2 câu đối tri ân Quốc Tổ Hùng Vương:
Lăng
tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà…
Non nước vẫn quay về đất Tổ
Văn minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc…
Giống nòi còn biết nhớ mồ ông..!
Hàng năm vào ngày mồng mười tháng ba là ngày lễ hội Hùng Vương được xem
như Quốc lễ của cả một dân tộc. Thời xưa đích thân nhà vua đứng chủ tế với đủ
nghi thức tế lễ long trọng. Lễ vật gọi là lễ Tam sinh gồm nguyên một con heo,
một con bò và một con dê. Bánh chưng và bánh dày là lễ vật không thể thiếu được
cũng như khi cử hành tế lễ phải có đầy đủ bộ nhạc cụ đặc biệt là chiếc trống
đồng độc đáo của Việt tộc.
Sau phần tế lễ là phần lễ hội với cuộc rước bánh dày bánh chưng và rước
cỗ chay, rước voi và cuối cùng là lễ rước kiệu bay truyền thống của dân gian
các làng xung quanh vùng đất Tổ. Mỗi làng đều đem theo kiệu riêng của làng mình
từ các làng do vị bô lão dẫn đầu rồi đến thanh niên trai trẻ mặc võ phục thuở
xưa tay cầm đủ loại cờ quạt sắc màu rực rỡ. Tất cả tề tựu dưới chân đền chờ cử
hành tế lễ tạo nên một rừng người, rừng cờ hoa với đủ sắc màu. Mọi người nô nức
dự lễ hội, già trẻ rộn rã tiếng cười nhưng khi tiếng chiêng tiếng trống khai lễ
thì không khí trang nghiêm u mặc bao trùm cả một vùng đất Tổ. Sau phần tế lễ
rước kiệu là phần hội hè với đủ mọi trò vui chơi cho nam thanh nữ tú tham dự
thưởng ngoạn. Mở đầu là cuộc thi đua thuyền truyền thống của các đội thuyền
Rồng của các làng trong hồ Đá Vao ngay cạnh chân núi. Dọc bờ hồ vòng quanh ven
chân núi đủ các trò vui chơi nào là những rạp tuồng chèo, những cây đu tiên,
những trò chơi dân gian như đánh cờ người, trò tung còn giữa thanh niên thiếu
nữ ngày xuân, những phường hát Xoan của các nơi về tụ hội tổ chức hát Xoan với
những làn điệu dân ca truyền thống mỗi độ xuân về.
Việt tộc là cư dân nông nghiệp nên thường tổ chức lễ tết hội hè quanh
năm suốt tháng nhưng lễ hội đền Hùng mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp. Dự lễ
hội đền Hùng chính là cuộc hành hương trở về nguồn cội dân tộc trong tâm thức
mỗi con dân đất Việt. Lễ hội đền Hùng không đơn thuần là cuộc chơi xuân với
những hội hè đình đám mà để chúng ta hướng vọng về Quốc tổ Hùng Vương, người
truyền thừa sự sống và khai mở đất nước Văn Lang cho tất cả chúg ta. Trên thế
giới ngày nay, có lẽ chỉ có dân tộc Việt Nam có Quốc tổ để tôn thờ và có một
huyền thoại Rồng Tiên đẹp như áng sử thi để chúng ta có quyền tự hào gọi nhau
là đồng bào, là anh em ruột thịt cùng một mẹ sinh ra:
Bọc điều trăm họ thai chung,
Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam
LÀ CON DÂN NƯỚC VIỆT, chúng ta phải hiểu rõ tất cả những thăng trầm hưng
phế của dòng vận động lịch sử mà biết bao thế hệ tiền nhân đã vun trồng bằng
máu và nước mắt để viết lên những trang sử hào hùng, tạo nên những kỳ tích có
một không hai trong lịch sử nhân loại.
Trên thế giới, không một dân tộc nào chịu đựng những thử thách, những
gian nan khốn khó hơn dân tộc Việt. Lịch sử đã chứng minh dân tộc ta đã đáp ứng
được những thách thức, vượt qua được những nghiệt ngã bức bách của từng thời kỳ
để Việt Nam là một trong số ít ỏi những nền văn minh của nhân loại còn tồn tại
mãi đến ngày nay.
Ngay tự thuở xa xưa, khi tiền nhân Việt chúng ta chọn vật Tổ biểu trưng
là Rồng-Tiên thì người Việt cổ đã có một ý thức chung về cộng đồng để gắn bó
sống chết với nhau trên một niềm tin tâm linh thiêng liêng rằng họ là con của
bố Rồng mẹ Tiên. Chính cái ý thức chung về vật tổ biểu trưng mang tính tâm linh
thiêng liêng cao cả để đồng bào Việt Nam, mọi người chung sống trong tình
thương yêu đùm bọc lẫn nhau đời này nối tiếp đời khác, đã trở thành một biểu
tượng thiêng liêng của đời sống người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Đó chính là
“Hồn nước” mà tiền nhân chúng ta gọi là “Hồn thiêng sông núi”.
Truyền thuyết khởi nguyên dân tộc cho chúng ta thấy rằng chúng ta cùng
một mẹ sinh ra nên chúng ta mới gọi nhau là “Đồng Bào” vì chúng ta là anh em
cùng trong bào thai mẹ sinh ra. Chúng ta có chung một ông Tổ là Quốc Tổ Hùng
Vương và cũng từ ý niệm này đã hình thành hai chữ “Tổ Quốc”, một biểu tượng
tinh thần hằn sâu trong tâm khảm của mọi con dân đất Việt. Cũng chính từ ý niệm
đồng bào mà người Việt Nam khi nói tới yêu nước thường gắn liền với thương nòi
vì chúng ta là một quốc gia, một dân tộc cùng chung một nòi giống “Tiên Rồng”,
cùng chung một ông Tổ là “Quốc Tổ Hùng Vương” và dĩ nhiên cùng chung một “Tổ
Quốc Việt Nam”. Đây chính là uyên nguyên của lòng yêu nước thương nòi, một cái
gene Vietnam khiến người Việt Nam yêu nước nồng nàn, dân tộc Việt Nam đã liên
tục chiến đấu để giành độc lập dân tộc sau gần một ngàn năm bị Hán tộc (Trung
Quốc) thống trị.
Lòng yêu nước thương nòi của người Việt Nam thể hiện xuyên suốt tiến
trình lịch sử khởi từ thời lập quốc cho đến ngày nay. Trải qua hàng ngàn năm
lịch sử, đối đầu với kẻ thù truyền kiếp hung hãn bạo tàn, thâm độc quỉ quyệt,
biết bao thế hệ đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ đất nước cho tổ quốc Việt Nam
trường tồn, dân tộc Việt Nam bất diệt.
Chúng ta có quyền tự hào là người Việt Nam và tin tưởng hãnh tiến hướng
về tương lai xán lạn huy hoàng của dân tộc trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ
ba của nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta không thể ngồi yên trông chờ vào cái gọi
là “Định mệnh của Lịch sử” mà chúng ta phải nhớ rằng, lịch sử hôm nay chính là
sự đóng góp của toàn dân trong những ngày qua và sự nhiệt tình đóng góp của
toàn dân hôm nay sẽ là lịch sử ở ngày mai. Lịch sử là cuộc trưng cầu dân ý mỗi
ngày của một dân tộc, thế nên chính chúng ta, mỗi ngày đang góp phần lịch sử
vào tương lai của dân tộc chúng ta…
PHẠM
TRẦN ANH
1. Theo cách tính ngày tháng Việt Lịch của dân tộc, thì tháng 3 là
tháng Thìn, ngày 10 là ngày Dậu và đếm từ Tý trong 12 con giáp. Theo 12 địa
chi, Dậu là gà, thuộc loài chim, và chim là biểu hiệu của Tiên. Cũng vậy, địa
chi Thìn đã mang nghĩa là Rồng. Ngày 10 tháng 3 là ngày Tiên, tháng Rồng. Ngày
10 tháng 3 được Tổ Tiên chọn chính là để giúp con cháu dễ dàng nhận thức về
nguồn gốc dân tộc của mình. Ngày nay chúng ta không những bảo lưu truyền thống
giỗ Tổ Hùng Vương mà còn xem ngày 10-3 ÂL là ngày nhớ ơn Quốc Tổ, ngày tri ân
tiền nhân, tưởng nhớ Tổ Tiên ông bà cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục mình nên người.
Chính vì vậy, ngày giỗ Tổ mang một ý nghĩa tâm linh sâu thẳm đã trở thành đạo
lý làm người của mọi người Việt Nam chúng ta.
2. Theo
học giả Trần Quốc Vượng thì Việt Trì và vùng xung quanh Vĩnh Phú là đỉnh cao
nhất của tam giác châu sông Hồng. Sông Hồng là tên gọi cuối thế kỷ thứ XIX do
màu nước của sông. Sách Thuỷ Kinh chú ở thế kỷ thứ VI gọi nó là Tây Đạo, phiên
âm từ một tên Tày cổ: Nậm Tao mà tên Việt hiện nay còn giữ được ở Việt Trì là
sông Thao. Tam giác châu sông Hồng được giới hạn bởi dải núi Tam Đảo ở rìa Đông
Bắc và dải núi Tản Viên ở rìa Tây Nam. Nói theo ngôn ngữ Phong thuỷ cận địa lý
học thì đất tổ với trung tâm điểm Việt Trì ở ngã ba Bạch Hạc ngoảnh mặt hướng
biển hậu chấm xa là dải Hoàng Liên Sơn chất ngất trời Nam, tay “Long” là dải Tam
Đảo với dưới chân nó là sông Cà Lồ. Tay “Hổ” là dãy Tản Viên với dưới chân nó
là sông Tích, sông Đáy. Trước mặt là sự “Tụ thuỷ” rồi “Tụ nhân”trên
đôi bờ nhị thuỷ với các đầm lớn trũng lầy như đầm Vạc Vĩnh Yên, ao Vua, suối
Hai Sơn Tây…Thế đất đó bảo đảm một viễn cảnh phát triển ngàn năm, hơn bốn ngàn
năn nếu tính từ
người
Việt cổ Phùng Nguyên đến ngày nay. Bao quanh điểm Việt Trì là những núi đồi lô
nhô như bát cơm mà dân gian hình dung thành bầy voi trăm con mà tới 99 con chầu
về đất Tổ.
3. Tư
tưởng vì dân này mãi đến ngày 19-11 năm 1863, mới được Tổng Thống Abraham
Lincoln khẳng định “Nhất định sẽ khai
sinh nền tự do và chính phủ Của Dân, Do Dân và Vì Dân nhất định sẽ không biến
mất khỏi mặt địa cầu này” tại lễ khánh thành Nghĩa trang Quốc gia tại Gettysburg.
No comments:
Post a Comment