Sunday, October 26, 2014

Đại biểu quốc hội không chịu tiếp dân oan mặc áo đỏ

Saturday, October 25, 2014

10 điều nên học từ Albert Einstein

Sưu tầm

 

02:31' PM - Thứ năm, 23/10/2014
 

Tất cả những sự vĩ đại có khi được tạo nên từ những điều cực kì đơn giản trong cuộc sống.

1. Theo đuổi sự tò mò:

 

“Tôi không hề có tài năng gì cả. Tôi chỉ vô cùng tò mò.”


Điều gì gợi nên tính tò mò của ta? Tôi tò mò là tại sao một người thành công còn người khác lại thất bại. Đây là nguyên nhân tại sao tôi bỏ nhiều năm trời để nghiên cứu sự thành công. Điều gì khiến ta tò mò nhất? Sự theo đuổi tính tò mò là bí quyết thành công của ta đấy.



2. Tính kiên nhẫn là vô giá

 

“Không phải là tôi quá thông minh, chỉ là tôi nghiên cứu vấn đề lâu hơn thôi”
Nhờ kiên trì mà rùa đã thắng được thỏ, Ta có sẵn sàng kiên trì đến cùng để đi đến mục tiêu của mình? Người ta cho rằng giá trị của con tem chứa đựng trong khả năng dính với thứ gì đó cho đến khi nó đến được nơi cần đến. Hãy hoàn thành cuộc đua mà ta đã bắt đầu!

 

3. Tập trung cho hiện tại:

 

“Bất cứ người đàn ông nào có thể lái xe an toàn khi đang hôn một cô gái đơn giản là vì anh ta đã không hôn nhiệt tình.”


Bố tôi nói rằng ta không thể cưỡi một lúc hai con ngựa. Tôi muốn nói rằng, ta có thể làm bất cứ điều gì nhưng không thể nào làm hết mọi việc. Hãy học cách tập trung vào công việc hiện tại, hãy chuyên tâm với những gì ta đang làm.


Năng lượng của sự tập trung là sức mạnh, là sự khác biệt giữa thành công và thất bại.

 

4. Trí tưởng tượng là sức mạnh:

 

"Trí tưởng tượng là tất cả. Nó là sự xem trước của những gì sẽ xảy ra. Trí tưởng tượng còn quan trọng hơn cả kiến thức.”


Ta có sử dụng trí tưởng tượng của mình mỗi ngày không? Einstein nói rằng trí tưởng tượng còn quan trọng hơn cả kiến thức! Trí tưởng tượng giúp ta hình dung được tương lai. Einstein nói tiếp: “Dấu hiệu thực sự của sự thông minh không phải kiến thức mà là trí tưởng tượng”. Ta có đang tập thể dục những “cơ bắp trí tưởng tượng” hàng ngày không? Đừng để một thứ có quyền lực lớn như trí tưởng tượng ngủ yên.

 

 

5. Hãy mắc lỗi

 

“ Một người không bao giờ mắc lỗi sẽ không cố tìm tòi điều mới lạ.
Đừng bao giờ sợ bị mắc lỗi. Một sai lầm không phải là thất bại. Sai lầm sẽ giúp ta làm tốt hơn, thông minh hơn và nhanh nhạy hơn nếu như ta biết nhận lấy sai lầm một cách đúng đắn. Tôi đã từng nói rồi, và tôi sẽ nói lại lần nữa, nếu ta muốn thành công, hãy nhân gấp ba những sai lầm ta mắc phải.

 

6. Sống với hiện tại:

 

“ Tôi không bao giờ nghĩ đến tương lai vì nó sẽ mau đến thôi.”



Cách duy nhất để hiểu được tương lai là sống càng thiết thực càng tốt trong hiện tại.


Ta không thể ngay tức thì thay đổi ngày hôm qua hay ngày mai, vì thế điều tối quan trọng là cống hiến tất cả cố gắng cho “bây giờ”. Nó là điều duy nhất có ý nghĩa, nó cũng là một thứ có một không hai.

 

7. Sống có giá trị:

 

“Đừng cố gắng để thành công, hãy cố gắng sống có giá trị.”

 

Đừng lãng phí thời gian để thành công, hãy dành thời gian tạo ra giá trị. Nếu ta sống có giá trị, thành công sẽ tìm đến.

 

Hãy khám phá những tài năng và năng khiếu mình có, học cách làm thế nào để sử dụng tài năng và năng khiếu của mình có lợi nhất cho mọi người.



Lao động là vô cùng quý giá và thành công là thứ kéo ta tuột dốc.

 

8. Đừng trông mong những kết quả khác:

 

“Sự điên rồ: làm hoài làm mãi một việc gì đấy và trông đợi những kết quả khác”

 

Ta không thể nào làm những việc tương tự nhau mỗi ngày và trông mong các kết quả khác đến. Nói cách khác, ta không thể cứ tập mãi một bài thể dục và trông đợi mình sẽ hoàn toàn khác đi. Để cuộc sống thay đổi, ta phải thay đổi đến mức độ hành động và suy nghĩ của ta thay đổi thì khi đó cuộc sống sẽ thay đổi.

 

9. Kiến thức là nhờ kinh nghiệm:

 

“Thông tin không phải là kiến thức. Nguồn duy nhất của kiến thức chính là kinh nghiệm”

 

Kiến thức là nhờ vào kinh nghiệm. Ta có thể trao đổi về công việc của mình, nhưng trao đổi chỉ cho ta hiểu biết triết tính về nó, ta phải bắt tay vào làm để biết xem “nó là gì”. Bài học là gì? Hãy tích lũy kinh nghiệm. Đừng giấu mình sau những thông tin nghiên cứu ấy, hãy ra ngoài và thực hiện nó và ta sẽ có được những kinh nghiệm vô giá.

 

10. Hiểu rõ luật để chơi tốt hơn:

 

“Ta phải biết luật chơi. Và sau đó ta phải chơi tốt hơn tất cả những người khác.”

 

Nói một cách đơn giản, có hai điều cần ghi nhớ. Điều đầu tiên là học cách chơi của trò ta đang chơi. Nghe thì không hay lắm nhưng nó là yếu tố sống còn. Thứ hai, ta phải chắc rằng ta chơi tốt hơn bất cứ ai. Nếu như làm được hai điều này, thành công là của ta đấy !!!

Sưu tầm








ĐẠI HỘI DIÊN HỒNG THỜI ĐẠI 2014

                                     TOÀN DÂN NGHE CHĂNG?
                                         SƠN HÀ NGUY BIẾN
   
                                                    Trân Trọng Kính Mời:

                           Quý Nhân Sĩ, Quý Chiến Hữu, Quý Đồng Hương, 

                               Đồng Bào Việt Nam Trong Nước và Hải Ngoại






Vui lòng bớt chút thì giờ quý báu tới tham dự
ĐẠI HỘI DIÊN HỒNG THỜI ĐẠI 2014.
              Tổ chức:  Vào lúc 10 sáng ngày 2-11-2014.
Đia điểm: Hội Trường VNCR-14861 Moran St, Westminster City.
BAN TỔ CHỨC:
Bô Lão Võ Toàn 104 tuổi.
GSTS Nguyễn Thanh Liêm
Nhà Biên Khảo: Phạm Trần Anh và các Đoàn Thể Quốc Gia:

Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại - Hội Đồng Liên Kết Đấu Tranh Dân Chủ Nhân Quyền Cho Việt Nam - Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam - Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam - Phong Trào Tranh Đấu Tư Do Tôn Giáo và Nhân Quyền Việt Nam - Phong Trào Đoàn Kết Việt Nam Cộng Hòa- Phong Trào Toàn Dân Cứu Nước -  Khối 8406 Hoa Kỳ - Phong Trào Phụ Nữ Hành Động Cứu Nước- Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California - Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Bắc California - Đoàn Thanh Niên Cờ Vàng Bắc California - Ủy Ban Phối Hợp Vận Động Đại Hội Diên Hồng Thời Đại Bắc California - Tổng Đoàn Thanh Niên Việt Võ Đạo (Vovinam) - Mặt Trận Dân Tộc Cứu Quốc - HĐTSTU GH Phật Giáo Hòa Hảo - Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới- Hội CSV Quốc Gia Hành Chánh - Nha Tuyên Úy Tin Lành- Ủy Ban Đặc Nhiệm Chống CS và Tay Sai - Little Saigon Van Couver Canada - Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Canada - Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Florida - Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Philadelphia - Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Arizona - Nhà Việt Nam Foundation-CLB Tình Nghệ Sĩ LIÊN LẠC: Phan Kỳ Nhơn: 714/854-4584, Phạm Trần Anh: 714/332-9243, Chu Tấn,  Nhan Hữu Mai: 714/ 595-4520, Ninh Thuận: 714/ 555-4714, Vũ Hoàng Hải: 714/ 867-8833, Richard Bui: 951/733-8844, Hoa Thế Nhân 714/839-2737, Phạm Văn Tường: 408/998-2362, Chu Tấn: 408/280-5375, BS Phạm Đức Vượng: 408/937-1400, Xuân Chung: 714/585-6556…




Friday, October 24, 2014

Blogger Ðiếu Cày Nguyễn Văn Hải (Hình: Uyên Vũ)
 

Khi trục xuất anh Điếu Cày ra khỏi Việt Nam, lãnh đạo CS nghĩ họ trục xuất anh sang Mỹ. Với lãnh đạo CS đó là một chọn lựa khôn ngoan. Bởi vì, theo họ, tên anh gắn liền với các phong trào chống chủ nghĩa Đại Hán Bá Quyền Trung Cộng; phong trào do anh lãnh đạo chẳng những không bị dập tắt dần theo năm tháng tù đày của riêng anh nhưng đã mỗi ngày một phát triển rộng; để anh ở lại là một mối lo canh cánh bên lòng.

Thật ra, đảng nghĩ vậy là lầm.

Từ lâu Việt Nam đã hình thành hai khối, Việt Nam CS và Việt Nam Tự Do. Đảng không đẩy anh qua Mỹ mà đã đẩy anh về phía Việt Nam Tự Do đang có mặt ở khắp bốn phương trời kể cả tại Việt Nam. Thả một con chim như Điếu Cày bay vào bầu trời tự do, con chim đó sẽ không biền biệt cuối chân mây nhưng một ngày sẽ bay về ngậm theo những hạt lúa mới. Hạt lúa dân chủ, khai phóng, nhân bản và tình người.

Khác với nhiều người tranh đấu trước anh, có thể ra đi vì chính kiến, ra đi vì quan điểm, ra đi vì gia đình, Điếu Cày ra đi vì trái tim khát vọng nồng cháy. Chính kiến có thể thay đổi, quan điểm có thể thỏa hiệp nhưng khát vọng độc lập, tự do dân tộc phát xuất từ trái tim của một con người chỉ có chết mới thôi.

Khát vọng độc lập, tự do dân tộc như đã chứng minh trong suốt dòng lịch sử Việt Nam, là ngọn lửa không bao giờ tắt. Hơn một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường với bao nhiêu cực hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm hương, châu báu, nhưng dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất. Đất nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được, Thăng Long đã từng bị đốt cháy nhưng chúng ta hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc.

Hiếm có trên một đất nước nào, ở đó, tên của một con sông, một ngọn núi, một thôn làng, cũng có thể làm cho người dân khi nhắc đến phải rơi nước mắt. Những Phong Hóa, Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Thiên Trường, Diên Hồng, Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa, v.v… không phải chỉ là những địa danh, mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh hùng khí của dân tộc Việt Nam.

Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở Sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên đổ xuống trước tham vọng của các triều đại Bắc phương xâm lấn.

Trong lúc sự kính trọng dành cho hàng trăm nhà dân chủ đang bị tù dày bao giờ cũng sâu đậm, tình cảm của đồng bào trong và ngoài nước dành cho anh Điếu Cày, đặc biệt trong thời gian anh tuyệt thực đã vượt lên trên. Tình cảm đồng bào dành cho anh giống như tình cảm của anh dành cho đất nước: thiêng liêng, thân thương và trong sáng.

Anh Điếu Cày không phải là nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị, nhà cách mạng, nhà lý thuyết, nhà hùng biện, nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp. Không phải là nhà nào cả. Anh chỉ là Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, cái tên một lần nghe rất lạ nay đã trở thành quen thuộc và gần gũi, đặc biệt trong lòng tuổi trẻ Việt Nam.

Anh Điếu Cày không phải là Nelson Madela của Nam Phi, Aung San Suu Ky của Miến Điện, Vaclav Havel của Tiệp. Anh là một người Việt Nam bình thường, đơn giản như hạt gạo, củ sắn, củ khoai, con mắm, ngọn rau nhưng cũng vô cùng cao quý bởi vì anh nói lên khát vọng độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Nỗi đau trong lòng anh là nỗi đau của một dân tộc định cư hơn bốn ngàn năm trên bán đảo Đông Dương trải dài 3260 cây số nhưng nay chỉ còn bờ mà không còn biển. Phải dành lại biển Đông, phải giành lại những hòn đảo mang tên Việt Nam, phải giành lại những tài nguyên trong lòng biển mà cha ông đã đổ máu để giữ gìn. Anh bước đi trên con đường quê hương gai góc, con đường nhiều người khác không dám đi: con đường chống Trung Cộng xâm lăng.

Mẫu số chung hôm nay là dân tộc và dân chủ. Mẫu số chung thiêng liêng đó vượt lên trên mọi hiệp định, mọi vĩ tuyến, mọi chia cách, mọi tôn giáo, thế hệ, trong hay ngoài nước. Mẫu số chung thiêng liêng đó không chỉ giá trị đối với những người đã từng hy sinh, từng đổ máu để bảo vệ miền Nam mà còn cho cả nhiều triệu đồng bào đã bị khủng bố từng ngày, từng đêm trên đất nước.

Không giống như 70 ngàn người Nga lưu vong ở Paris sau cách mạng CS năm 1917 hay hàng trăm ngàn người Việt lưu vong ngay sau CS chiếm VNCH năm 1975, người Việt Nam tự do hôm nay không còn mang tâm trạng lưu vong nữa. Thời đại hôm nay là thời đại của những người chết đang bắt đầu sống lại và người đi đang lần lượt quay về. Anh Điếu Cày cũng vậy, trong lòng anh không có khái niệm lưu vong, anh ra đi là để quay về. Và chúng ta sẽ về.

Cuộc cách mạng tin học, cách mạng kinh tế toàn cầu, sự sụp đổ của hệ thống CS Liên Xô và chư hầu Đông Âu đã xóa bỏ nhiều cách ngăn, biên giới, thu ngắn thời gian và thu hẹp không gian. Anh Điếu Cày rời nhà tù, anh ra phi trường, anh lên máy bay, anh xuống máy bay, đối với người Việt quan tâm đến đất nước và anh, tất cả điều đó như đã diễn ra trong cùng một không gian và cùng một múi giờ dù ở chúng ta ở đâu trên mặt đất này. Bởi vì, không gian là trái tim Việt Nam và thời gian được tính bằng nhịp đập của trái tim Việt Nam.

Ngày cáo chung của chế độ CS toàn trị tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian. Ngay cả những lãnh đạo cao cấp nhất của đảng CS cũng biết điều đó. Những cường hào ác bá cai trị đất nước ngày nay không phải là những người làm nên lịch sử mà chỉ là những kẻ làm công việc giải thích, ăn cắp, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng xích hóa Việt Nam của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản trước đây, và tiếp tục sống huy hoàng trên nỗi thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam. Họ phải bị lật đổ.

Trước ngày 25 tháng 12 năm 1991, đảng CS Liên Xô cai trị một vùng đất có diện tích 22 triệu 400 ngàn kilomet vuông, rộng hơn cả thời huy hoàng nhất của Đế Quốc Nga và một đạo quân 5.3 triệu lính, nhưng không cứu vớt được Liên Xô.
Sự sụp đổ của Liên Xô phát xuất từ nhiều lý do nhưng sâu xa nhất vẫn là từ khát vọng độc lập tự do của các dân tộc Estonia, theo chân là Lithuania, Latvia và lan dần sang các dân tộc khác như Azerbaijan, Armenia, Tajikistan và Uzbekistan. Những dân tộc bị trị chiếm hai phần ba dân số của Liên Xô và đã đấu tranh không ngừng nghỉ ngay từ ngày đầu bị cưỡng chiếm.

Câu chuyện bi hùng về phong trào du kích Anh Em Rừng (Forest Brothers) của các dân tộc vùng Baltics chống lại CS Liên Xô từ sau thế chiến thứ hai là một bằng chứng hùng hồn. August Sabbe, người Estonia, kháng chiến quân cuối cùng của Anh Em Rừng bị KGB khám phá hơn 30 năm sau, ngày 27 tháng 9 năm 1978, nhưng chúng không giết được anh. Anh đã nhảy xuống sông Vohandu tuẫn tiết mang theo khát vọng tự do thiêng liêng. Phạm Hồng Thái của Việt Nam trước đó đã hy sinh như thế. Cuối cùng, tinh thần dân tộc và khát vọng dân chủ tự do của dân tộc Estonia đã thắng KGB và vượt qua được chính sách tẩy não vô cùng thâm độc của chủ nghĩa CS.

Biển Thái Bình hôm nay là sông Bến Hải trước đây. Và thuận lợi hơn trước thời điểm năm 1975, bên kia Thái Bình Dương, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, vì quyền sống của con người đang bùng lên trên mọi ngã đường, mọi giới, mọi thế hệ. Quá khứ dù có khó khăn, hiện tại còn vất vả nhưng tương lai tươi đẹp rồi sẽ đến. Dòng sông dù còn vẩn đục nhưng nước đang trôi nên sẽ có một ngày trong. Cánh cửa đã mở. Ánh sáng đã rọi vào. Những người mang ánh sáng đang có mặt trên khắp ba miền đất nước. Họ còn ít, còn yếu nhưng họ là ánh sáng, ánh sáng Điếu Cày.

Trần Trung Đạo
Boston, 22 tháng 10, 2014

Thursday, October 23, 2014

Hà Nội mở tới đâu, Hoa Kỳ mở tới đó?


Blogger Nguyễn Văn Hải được đón tiếp nồng nhiệt tại Los Angeles

Chính quyền gấp rút đưa blogger Nguyễn Văn Hải, tức Điếu Cày, xuất cảnh để cách ly với giới hoạt động trong nước, theo ý kiến một nhà quan sát.

Nhận định trên được nhà báo tự do Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, đưa ra trong buổi phỏng vấn với BBC ngày 22/10.

Ông Dũng cũng cho rằng việc ông Hải được trả tự do mở ra hy vọng cho nhiều tù nhân chính trị khác đang còn bị giam giữ tại Việt Nam.

BBC: Ông có bất ngờ trước tin ông Nguyễn Văn Hải được trả tự do không, thưa ông?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Thực ra thì tôi không bất ngờ. Từ sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 và sau tháng 7 năm 2014 thì mọi chuyện đã xoay chuyển khá nhiều.

Sau chuyến thăm Hà Nội của thượng nghị sỹ John McCain và Chủ tịch Hội đồng liên quân Hoa Kỳ Dempsey thì mọi chuyện đã không còn trong bóng tối nữa.

Từ tháng 8 tôi đã nghe tin Nguyễn Văn Hải được đặc xá và vấn đề chỉ là thời gian thôi.

Vấn đề bất ngờ ở đây là cách người ta đối xử với ông Hải như ông Cù Huy Hà Vũ, từ nhà giam đưa ra thẳng sân bay mà không được gặp người nhà, cách đối xử như vậy không tốt một chút nào.

BBC: Theo ông thì vì sao chính quyền Việt Nam lại phải gấp rút đưa ông Hải và ông Vũ ra sân bay sau khi trả tự do cho họ như vậy?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Người ta lo ngại dự luận và ảnh hưởng của những người như vậy đối với giới dân chủ, giới bất đồng chính kiến tại Việt Nam.

Thực ra mọi chuyện sẽ không đến mức phải quá lo lắng đối với nhà nước Việt Nam vì hiện nay thực lực của giới dân chủ và những người mang trường phái thoát Trung, mang quan điểm bất đồng với nhà nước chưa phát tán quá mạnh.

Nhưng với một nhà nước thiếu tính chính danh, thiếu thực lực thì họ luôn sợ cái mà họ cho là thế lực thù địch từ trong ra ngoài, vì vậy cách tốt nhất của họ là tống ra nước ngoài không để khuếch trương lực lượng.

Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Tôi nghĩ ra nước ngoài là cách tốt nhất để họ gây ảnh hưởng.

Ở Việt Nam để làm việc này rất khó khăn. Tôi nghĩ ông Vũ và ông Hải đi Mỹ hoặc Canada thì họ vẫn có thể xây dựng ảnh hưởng truyền thông để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh trong nước.

BBC: Bên cạnh những người được trả tự do gần đây thì cũng đã có thêm những nhân vật khác bị bắt giữ như bà Bùi Thị Minh Hằng hay như ông Nguyễn Hữu Vinh. Phải chăng chính sách ngoại giao nhân quyền của Hoa Kỳ cần có sự điều chỉnh để phù hợp hơn với hành động từ phía Hà Nội?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Một số viên chức chính trị Mỹ cũng có hỏi tôi câu này. Về mặt khách quan thì mọi chuyện đang chậm rãi và có lẽ là không thể nhanh hơn được vì tất cả tùy thuộc vào Hà Nội.

Hoa Kỳ thực ra đã chìa tay ra cho Hà Nội từ tháng 6 năm 2014 khi xảy ra vụ giàn khoan Hải Dương 981. Nhưng tiếc là Hà Nội đã hành xử quá chậm và cuối cùng là họ chậm trễ luôn cả TPP. Mà khi đã chậm trong quá khứ thì khó mà nhanh trong tương lai.

Giữa tháng 11 thì Hoa Kỳ sẽ trải qua bầu cử giữa nhiệm kỳ và chỉ sau đó quốc hội mới bắt đầu lắng nghe, xem xét những trình bày của chính phủ về việc đàm phán TPP và liệu có thể kết thúc một cách cơ bản đàm phán về TPP trong năm nay hay không.

Quả bóng hiện nay không trong chân chính phủ mà là trong chân quốc hội Hoa Kỳ.

Vấn đề thứ hai là về phía người Mỹ thì có lẽ họ đã rút kinh nghiệm phải nói là chua chát giai đoạn từ năm 2007-2008, khi Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và được dỡ bỏ khỏi danh sách cấm vận của các nước quan tâm đặc biệt đến vấn đề tự do tôn giáo.

Nhưng sau khi vào được WTO rồi thì họ quay trở lại đàn áp giới bất đồng chính kiến và hoạt động dân chủ.

Thế nên tôi nghĩ là Hoa Kỳ sẽ không ưu tiên đẩy mạnh những biện pháp mà họ cho là để hàn gắn mối quan hệ Việt - Mỹ mà họ sẽ lặng lẽ, chậm rãi và theo nguyên tắc thì Hà Nội mở tới đâu, Hoa Kỳ mới mở tới đó.

Máy của bạn không hỗ trợ nghe âm thanh
null

BBC: Vậy có phải ông đang cho rằng do nhu cầu từ phía Hà Nội muốn Hoa Kỳ tiếp tục nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí và thúc đẩy tiến trình đàm phán TPP, sẽ có nhiều tù nhân chính trị tiếp tục được trả tự do trong thời gian tới?

Nhà báo Phạm Chí Dũng: Chắc chắn là như vậy.

Hiện nay nếu nói là về lợi thế so sánh thì nhà nước Việt Nam có gì? Họ không còn thứ tài nguyên gì đáng kể ngoài cái gọi là tài nguyên nhân quyền.

Còn vài trăm con người còn nằm trong chốn tù đày, đó là món lợi đặc sản và có thể đem ra trao đổi với nước ngoài.

Muốn nhận được TPP hoặc vũ khí sát thương thì nhà nước chỉ còn cách đem các tù nhân đó ra trao đổi.

Tương tự như trường hợp của Miến Điện cách đây 3 năm. Đến cuối năm 2012, hàng loạt tù nhân Miến Điện, kể cả những người có mức án lên tới 105 năm cũng được ra tù.

Ông Hải, tù nhân chính trị quan trọng nhất tại Việt Nam, mà còn được ra tù thì tất cả những tù nhân khác đều có hy vọng cả.

   CÀ PHÊ SAIGÒN XƯA
Hồi xửa hồi xưa … có một Sàigòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt…



                              TRỞ VỀ THẬP KỶ 50: CÀ PHÊ VỚ

Năm một ngàn chín trăm… hồi đó người Sài gòn chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh…có khói nầy là do các xếnh xáng A Hoành, A Coón, chú Xường, chú Cảo…chủ các tiệm hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.

Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phểu được may cặp với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc vợt cà phê nầy hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê nầy sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi… “kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cái“quy trình” pha chế thủ công đầy phong cách Tàu nầy mà dân ghiền cà phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa“kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc.

Có mấy khu vực có những con đường qui tụ rất nhiều tiệm cà phê hủ tíu. Ở Chợ Cũ có đường Mac Mahon (đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuỗi (nay là Cách Mạng Tháng Tám) cũng đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày.

Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Điện Biên Phủ và Lê Hồng Phong bây giờ) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ 4 giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm. Còn nếu ai đi lạc vào khu Chợlớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn có thể ngồi nhăm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dà – chả – quải đến tận sáng hôm sau.

                                 CÀ PHÊ HỦ TÍU TÀUSách phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư đường vì dễ bị nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía, A Hoành, A Koón… thì đều chọn các nơi nầy làm chổ kinh doanh. Tuy Sài gòn, Chợ lớn, Gia Định, Phú Nhuận, Đa Kao có hàng trăm tiệm cà phê, hủ tíu Tàu nhưng nhìn chung chúng đều có một “mô – típ – made in China” khá giống nhau, tức là quán nào ở phía trước cửa cũng có một xe nấu hủ tíu được làm bằng gỗ thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên của xe được trang trí bằng những tấm kính tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Triệu Tử Long, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt.

Bên trong quán hoặc xếp bàn tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay phổ ky vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải đặt trên bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà!”.

                         UỐNG CÀ PHÊ PHẢI BIẾT CÁCH

Như đã nói ở trên, hồi đó không có cà phê ta mà chỉ có cà phê Tàu. Vì thế uống cà phê Tàu phải có một phong cách riêng.
Cà phê được mang ra dân ‘sành điệu” hồi đó ngồi chân dưới chân trên, sau khi khuấy nhẹ cho tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái đĩa đặt phía dưới. Chưa uống vội, khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài hơi để chờ cà phê nguội.

Ông Sáu “trường đua” nay đã 80 kể rằng hồi ông còn là một chú nhóc nài ngựa ở trường đua Phú Thọ ông cũng uống cà phê theo phong cách nầy, tức uống bằng đĩa chớ không uống bằng ly. Bàn tay phải nhón lấy cái đĩa đưa lên miệng và húp sì sụp: 

“Uống vậy mới khoái, mới đúng kiểu của dân từng trải”, ông Sáu “trường đua” nói với vẻ tự hào. Ông còn kể cho tôi nghe chuyện ông từng ăn mảnh ở mấy tiệm hủ tíu bánh bao hồi năm sáu chục năm về trước với giọng khoái trá: 

“Hồi đó tao làm nài ngựa. Hôm nào ngựa thắng độ thì nài được chủ ngựa thưởng cho bộn tiền. Hôm nào ngựa thua thì coi như đói. Không sao, 73 gần trường đua có một tiệm hủ tíu cà phê. Vào búng tay chóc chóc gọi cà phê. Cứ cho mấy thằng phổ ky mang bánh bao xíu mại ra bày trên bàn. Đợi đến khi nó mang cà phê ra rồi bỏ chạy sang bàn khác thì nhanh tay gở miến giấy phía dưới cái bánh bao ra và khoắng ngay cái nhân phía trong tọng vào miệng rồi đậy bánh lại như cũ. Thế là chỉ tốn ly cà phê vài xu mà đã có cái nhân bánh bao to đùng ngon lành trong bụng rồi”.

Theo ông Sáu “trường đua” thì các chủ tiệm cà phê hủ tíu hồi đó rất chiều khách. Sì sụp húp cà phê bằng đĩa xong muốn ngồi bao lâu cứ ngồi, hết trà cứ hô lên “xà dẵm” là có người mang ra bình trà mới, uống chừng nào chán thì đi. Khi được hỏi tại sao dân “sành điệu” lại không uống bằng ly mà lại… húp cà phê bằng đĩa, ông sáu “trường đua” lắc đầu nói không biết chỉ biết dân “sành điệu” chơi vậy mình cũng bắt chước chơi vậy thôi, vậy mới là… sành điệu!
                CÀ PHÊ PHIN HAY CÀ PHÊ ‘NỒI TRÊN CỐC”

Dòng cà phê… vớ cà phê kho lững lờ trôi như thế hằng thế kỷ của thiên kỷ trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà uống cà phê đổ ra đĩa rồi sì sụp húp thì được xem như đó là phong cách của dân chơi sành điệu.

Một người tên ông Chín “cù lủ”, một tay bạc bịp nay đã hoàn lương cho rằng dân cờ bạc, dân giang hồ hồi đó chẳng đời nào bưng ly mà uống như ngày nay. Kẻ ngồi nghiêm túc, nâng ly lên uống như uống rượu bị các đàn anh “húp” đĩa xem khinh bằng nửa con mắt, coi như hạng… “bột” lục hục thường tình không đáng kết giao.

Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê trên đĩa mới… “sang” cũng đến lúc phải lụi tàn, vì bị chê là kiểu uống bẩn, uống thô vụng khi trào lưu cái phin“filtre” bắt đầu xuất hiện và đã làm biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu.
Vào thập niên 60 Nhà hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi – nguyễn Trung Trực) mở cú đột phá ngoạn mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ sĩ trẻ chiều chiều ra đó bàn chuyện văn chương và… rửa con mắt. Hồi đó cà phê Kim Sơn chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học sinh. Mặc dù chủ quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa nhưng đã tiếp thu phong cách cà phê hè phố của dân Paris (Pháp).

Theo lý thuyết, những giờ uống cà phê là những giờ thư giản hoàn toàn, vừa nhăm nhi từng ngụm nhỏ cà phê dặc sánh vừa ngắm quang cảnh sôi động đông vui của đường phố. Thuở ấy con đường Lê Lợi vẫn còn những hàng me. Vào những ngày me thay lá, dưới ánh nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi tản mản như hoa “com – phét – ti” lấp lánh làm cho đường phố trở nên… “mộng mị” và thơ…


Kim Sơn biết tận dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, tầm nhìn rộng bao quát để khai thác dịch vụ cà phê hè phố. Cái phin đã trở nên quen thuộc, cao cấp hơn cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất “phản cảm” xưa.

Thời điểm nầy những nhà văn, nhà báo, các nhà doanh nghiệp tên tuổi cũng có những quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ. Những La Pagode, Brodard, Givral, Continental là nơi gặp gỡ, giao lưu của giới thượng lưu Sàigòn.
                                           CÀ PHÊ TÂY
Cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt ghế gỗ mà ngồi trên những salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con đường Catinat (nay là Đồng khởi) con đường đẹp và sang nhất của Sàigòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng Continental cũng mở một không gian cà phê sang trọng đúng phong cách “Phăng – se”. Đối diện Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với những món bánh ngọt tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung cửa kính nhìn ra Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời khoáng đãng. Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ.



Còn một quán cà phê với một phong cách phương Tây như bàn ghế, trang trí nội thất sang trọng cũng nằm trên con đường nầy là quán cà phê Brodard. Với một phong cách cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng thật nhạt để khách có thể thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện hương thơm.

Có thể nói từ giai đoạn nầy người Việt Nam ở Sàigòn “thức tỉnh” trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ quên và đã để cho các chú Hoành, chú Koón, chú Xường… tự do khai thác.

Khi qua tay người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái ‘đuôi” mì, hủ tíu, hoành thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao… nữa mà nó thuần túy chỉ có cà phê nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao nhã hơn, thu hút hơn…
                               CAFÉTÉRIA CA NHẠC
Để gần gủi hơn, thu hút khách hơn và cũng mang tính giải trí hơn, một số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca nhạc theo dạng Cafétéria.
Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode, Brodard, Givral, Continental… nơi đây không phải chổ để trầm tư, bàn luận chuyện đời mà hoàn toàn là chổ vui chơi giải trí.

Trên đường Bùi Viện đầu những năm 60 mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh Vũ. Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tăm tiếng được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái… Lúc đó phòng trà Anh Vũ là điểm hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như những văn nghệ sĩ sinh sống tại đây. Con đường chật hẹp Bùi Viện bổng đêm đêm sáng lên rực rở ánh đèn Anh Vũ, người xe tấp nập đông vui.

Một Cafétéria khác theo cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường Cao Thắng) với tên Phòng trà Đức Quỳnh. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria nầy. Đức Quỳnh với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương Dung đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa giải trí một cách tao nhã.
Rồi tiếp theo là cà phê Cafétéria Jo Marcel, trên đường Hai Bà Trưng, Đêm Màu Hồng trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) thi nhau mọc lên đẩy “Nền văn hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng trình bày.

Một Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây khách thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài hát “Anh đèn Màu”.

Cũng như ca sĩ Cao Thái nổi tiếng với bài “Mexico”, ca sĩ Anh Tuyết mỗi lần trình diển “Anh đèn Màu” là bà hát với những dòng nước mắt. Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người nghệ sĩ là ca hát để người mua vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ sĩ lại một mình giữa cô đơn… Có lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng của bà nên bà rất ít khi chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có người yêu cầu, trừ những người thân quen bắt buộc phải đáp ứng, còn thì Anh Tuyết xin lỗi từ chối khéo.
                   LẠI QUAY VỀ CÀ PHÊ VỚ ĐÔNG VUINhững ngày đầu sau khi thanh bình, Sàigòn lại rộ lên phong trào cà phê hè phố. Những quán cốc che tạm tấm bạt bên lề đường với những chiếc ghế gỗ lùn làm chổ tụ họp của các thanh niên vui đón những ngày hạnh phúc mới.
Vòng quanh Hồ con Rùa, xuống đến Phạm Ngọc Thạch, quẹo qua Nguyễn Đình Chiểu có hàng mấy chục “túp lều” cà phê như thế mọc lên san sát bên nhau.
Trên đường Trần Quốc Thảo gần Hội Văn Nghệ TP, một số anh em văn nghệ cũng mở quán cà phê cóc bên vệ đường để anh em hội tụ, gặp gở sau khi chiến tranh đã kết thúc.
Chỉ là cà phê hè phố nhưng đông vui, uống một cốc cà phê siêu, cà phê vớ nhưng thoải mài ngồi cả ngày cũng chẳng ai rầy rà. Sau khi hết tiếng súng nổ, hết hỏa châu đầy trời, hết bắt lính, thanh niên, sinh viên Sài gòn vui vẻ chào đón những ngày cách mạng đông vui ngoài phố. Và các ‘quán cốc liêu xiêu một câu thơ” bên các vĩa hè là chổ dừng chân để… “tám” đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.

Chỉ có ai ở tuổi thanh niên vào thời điểm lịch sử có một không hai đó mới thấy được cái thú ngồi quán cà phê bụi lụp xụp mà hầu như đường nào cũng có. Có người còn có thuốc Ruby, Con Mèo để phì phàbên ly cà phê vớ nhưng để… phiêu bồng hơn một số lớn thanh niên chơi… “bốc – lăn – se” tức thuốc vấn. Anh nào cũng thủ sẵn một bọc trong túi xách để sẳn sàng bày ra cho bạn bè tha hồ vừa bốc vừa lăn vừa se vừa liếm vừa dán rồi phì phèo nhả khói

Cà phê quán cóc (nhảy nay chổ nầy mai chổ khác như cóc nhảy ấy mà)thời ấy được coi như thời huy hoàng lãng mạn nhất của nền… văn hóa ẩm thực cà phê cóc Sàigòn. Ban ngày đã rộn ràng như thế đến đêm bên những ngọn đèn dầu lù mù loanh quanh những con đường trong thành phố cũng có những quán cóc để dân mê cà phê, mê hòa bình được tận hưởng những giờ phút, sảng khoái, thanh bình, yên ả nhất của đời mình.
                SÀIGÒN DĨ VÃNG VÀ SÀIGÒN BOLSA
Sàigòn một thuở là Hòn ngọc Viễn Đông, một Paris lấp lánh khắp cõi Châu Á, tới hôm nay, đã mang tên khác, nhưng người ta vẫn quen gọi tên cũ chính danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi vẫn mang tên là Sàigòn. Sàigòn của muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang sống ở thành phố đó hay lưu lạc khắp năm châu thế giới..
Người Sàigòn không nhất thiết phải sinh ra tại đó, có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững. Một người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân Sàigòn, dù chỉ ở đây một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi, và mang Sàigòn ở trong tim, như một phần của thân xác, linh hồn mình. Chỉ như vậy thôi, người ta có thể ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là dân Sài gòn.
Tóm lại, Sàigòn là của tất cả mọi người suốt giải giang sơn, từ Bắc qua Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền mẫu, dang vòng tay ôm thương yêu quảng đại tới con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và ngay cả người ngoại quốc nữa.
Một người Pháp sinh ra ở Paris, bỗng dưng một hôm tuyên bố, từ nay tôi không còn là một Parisien, cư dân ở Paris nữa. Tôi là người Sàigòn và sẽ ở lại đây cho tới cuối đời. Thế là dân Sàigòn bèn gọi chàng Tây là anh Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người Sàigòn là như vậy đó, thiệt là cởi mở và phóng khoáng.
Một nhạc sỹ sáng tác nhạc gửi: “Sàigòn ơi! Ta hứa rằng ta sẽ trở về” . Rồi chàng cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách. Nhưng chàng khám phá ra mình thực sự mất Sàigòn trong thực tại. Thế nên, nếu có sự trở lại, thì chỉ còn một hành hương về Sàigòn trong quá khứ với ngọc ngà dĩ vãng..
Hãy cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù khơi. Sàigòn của những thập niên 1950 từ hơn nửa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp đêm, sòng bài Đại Thế Giới, Chợ Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ loại sòng bài và cách chơi khác nhau, lại có chỗ giải trí như xe nhỏ chạy bằng điện húc nhau đùa rỡn, hiện nay Las Vegas vẫn còn trò chơi này. Khu văn nghệ khác như phòng trà vũ trường. Con đường Trần Hưng Đạo Galliéni, Đồng Khánh chạy dài từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun vút dẫn khách tới sòng bài, lưu thông hàng ngàn chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn pha sáng chói, chẳng khác gì đại lộ Champs Elyseé tại Paris.

Đường Richaud Phan Đình Phùng quả thật văn nghệ với quán cà phê Gió Nam nỗi tiếng vì cô hàng café tuyệt sắc giai nhân. Nàng có nước da trắng xanh liêu trai với mái tóc thề ngây thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi vào truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm, tranh đua nàng, từ trí thức đến du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Đình Phùng với quán phở Con Gà sống thiến cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh tài sắc. Yến Vỹ cùng chị, cả hai để mái tóc bồng rối như minh tinh Brigitte Bardot. Bao thực khách đến chẳng phải phở ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát hay. Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở giai nhân cũng khiến một chàng Cử Văn Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si. Phan Đình Phùng còn thêm café quán Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những giai nhân lai Pháp, càng làm thêm Sàigòn có một chút Paris.

Sàigòn by night đã là những phòng trà ca nhạc và vũ trường khiến màn đêm Thành Đô trở nên lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ đêm huyền thoại. Nổi bật nhất từ cuối thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ. Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau này. Thanh Thúy ở tuổi mượt mà thanh xuân đôi tám đã hát từ Anh Vũ, làm mê say bao tao nhân mặc khách. Người ta mê Thanh Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên giọng ca trầm buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa đưa tay vuốt làn tóc buông rơi, sau đó gây chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi dậy thì, có lúc nàng lại vưốt cây micro nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì sốt nóng lạnh. Ban CBC thuở Anh Vũ đã là ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới, với tuổi khoảng sáu, bảy mà thôi. Thảm kịch cũng xảy ra cho phòng trà Kim Điệp Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết. vì dám cặp kè với người đẹp Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng sát phu qua hai đời chồng bị tử nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim Điệp sau vụ ấu đả vì ghen tuông. bị đóng cửa để trở thành Nhà sách.

Quán café trà thất đẹp nhất Sàigòn phải kể là Quán Gió, sau thành “Hầm Gió”, thiết trí sâu dưới đất, như một hầm rượu bên Âu châu. Người đẹp ngồi cash, bên một thùng rượu làm thành cái bàn khá ngoạn mục. Ca sỹ Thanh Lan thường có buổi trình diễn tại đây
Chính những phòng trà đêm Sàigòn đã đưa nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc phản chiến cấm hát ở Đài phát thanh nhưng tại phòng trà thì vẫn được trình diễn tự do.

Vũ trường, phòng trà Sàigòn còn ghi lại một thiên tình sử đẫm lệ, khi nữ ca sỹ Diệu Anh kiều diễm hát hay, đã tự tử vì . . . bị một nam ca sỹ bỏ rơi. Chàng trai bạc tình sau đó vì buồn và hối hận đã bỏ hát vài năm. Đêm Sàigòn trà thất vũ trường còn ghi đậm cây si thường xuyên Mai Thảo và Hồng Dương, để viết thêm những tình sử lâm ly với hai nữ danh ca khác.

Đêm Sàigòn bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và Khánh Ly, những tiếng hát vàng ròng cả nghĩa trắng lẫn nghĩa đen, vì lương tháng hai nữ danh ca này lên tới một triệu. Trong khi đó, lương một Đốc sự, Phó Quận trưởng tới năm 1975 chỉ có 33 ngàn đồng một tháng.
Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng ngay tại bến Bạch Đằng. Thuở đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta thích đi Mỹ Phụng vì ban đêm có gió sông Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ Thanh. Nàng chuyên hát những tinh khúc ướt át, trong điệu slow tắt đèn, mờ ảo như “Dang dở ” “Nỗi Lòng”. Tiếng hát mê đắm Lệ Thanh đã thu hồn một Bác Sỹ trở thành phu quân của nàng.
Đêm Sàigòn ngọc ngà dĩ vãng khiến người ta khó quên được vì những dạ vũ Bal Famille có khi kéo dài từ đêm suốt sáng. Ai có ngờ cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú, sau này lại trở thành ca sỹ Khánh Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh danh là Phú chuột, trắng trẻo, mũm mĩm xinh như thỏ con, thường nhảy cùng Mai với đám bạn trai. Mai nhảy có khi bỏ cả giày cao gót giữa đêm vui đã gần rạng sáng.
Thuở ấy, người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi tài nhảy của Tony Khánh, thường nhảy cặp với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân ra sàn nhảy, mọi người đều ngừng khiêu vũ để thưởng thức tài nghệ bậc sư biểu diễn. Sau đó là pháo tay nổ ròn như ngày Tết.

Hòn ngọc Viễn Đông Sàigòn từ thập niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn đã đổi tên. Người Sài Gòn đã bay xa, lập thành bao nhiêu Little Sàigòn rải rác khắp hải ngoại . Và dân Sàigòn năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai nhân ca sỹ lừng danh, nay đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi hạc. Thế nhưng trái tim chằng bao giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh Tâm Tuyền ta gọi tên ta, Sàigòn cho đỡ nhớ. Hỡi những Đêm Mầu Hồng, Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự Do . . . Những đêm vui thắp sáng kỷ niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để làm thành một Thủ Đô Sàigòn bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn trong lời nhạc của Ngô Thụy Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới Paris, Vienne, cũng chẳng thể tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua dĩ vãng cũng như Sàigòn mai sau.
Biên soạn từ lophocvuive onlinr
Ảnh sưu tầm
Tác giả: khuyết danh