TỔNG KẾT CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM Việt Nam với bờ biển dài như hình chữ S
nhìn ra biển Đông Thái Bình Dương, khống chế toàn bộ hải trình từ Đông sang Tây
và ngược lại nên được xem như “ngã tư giao thương quốc tế”. Ngoài vị trí “địa
lý chiến lược” hết sức quan trọng, Việt Nam còn có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
và một hải phận rộng 1 triệu km2 với trữ lượng dầu hỏa tiềm tàng đã khiến các
cường quốc luôn tìm mọi cách xâm chiếm, can thiệp vào Việt Nam. Lịch sử cận đại
chứng minh khu vực Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng là một khu vực
địa lý-chính trị và quân sự nên cuộc chiến tranh ở Việt Nam kéo theo cả Đông
Dương (Việt, Miên, Lào) và cả khối Đông Nam Á trong cuộc tranh chấp chủ quyền
biển đảo ở vùng này.
Ngày 3-2-1930 Hồ Chí Minh thành lập đảng
CSVN đến tháng 10-1930 theo chỉ thị của Cộng sản quốc tế đổi tên là đảng Cộng Sản
Đông Dương. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh thực dân Pháp. Ngày 11-3-1945, Cơ Mật
Viện triều Nguyễn họp khẩn cấp và ra tuyên bố “Huỷ bỏ Hiệp ước 1884 và Khôi phục
chủ quyền cuả Việt Nam”. Ngày 12-3-1945,
Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập. Như vậy, Việt
Nam trên nguyên tắc đã chính thức độc lập kể từ ngày 11-3-1945 với chính phủ Trần
Trọng Kim đầu tiên trong lịch sử. Cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp mà Cộng
Sản phát động dưới danh nghĩa giải phóng các dân tộc Việt Miên Lào trong thực
chất là để bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản,
nhuộm đỏ cả Đông Dương để mở đường cho Trung Cộng tiến xuống Đông Nam Á. Ngày
18-1-1950, Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 31-1-1950 Liên
Sô công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa là nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông
Nam Á nên ngày 7-2-1950, Anh, Hoa Kỳ và các nước tự do công nhận chính phủ quốc
gia Bảo Đại. Hồ Chí Minh lãnh đạo chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chính thức đứng vào hàng ngũ Cộng Sản nên cuộc
chiến tranh giành độc lập dân tộc đã trở thành chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng
Sản và tư bản, đưa dân tộc Việt Nam vào thế khốn cùng. Để lợi dụng lòng yêu nước
của toàn dân, ngày 11-11-1945, đảng Cộng Sản Đông Dương giải tán rồi thành lập
đảng Lao Động (16-3-1951) trá hình của đảng
Cộng Sản để lãnh đạo phong trào Việt Minh.
Ngày 2-6-1948, thành lập chính phủ Trung
Ương Lâm thời do Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng, ban hành Hiến chương Lâm thời của
nước Việt Nam, chọn quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ và bài “Thanh niên Hành khúc” sau
khi đã đổi lời của Lưu Hữu Phưóc làm quốc ca. Ngày 5-6-1948 công bố bản Tuyên
ngôn Vìệt Pháp gọi là Tuyên ngôn vịnh Hạ Long minh định Pháp quốc thừa nhận Việt
Nam là một quốc gia Độc lập và thống nhất trong Liên Hiệp Pháp với tư cách một
quốc gia liên kết. Từ tháng 8-1945 đến 1-1946, Hồ Chí Minh đã
gửi 8 bức thư cho TT Harry S Truman và bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kêu gọi Hoa Kỳ xin
được công nhận và giúp ngăn quân đội Pháp trở lại Đông Dương. Thế nhưng, toán
OSS cơ quan tình báo chiến lược của Hoa Kỳ ở Đông Dương do Thiếu tá Thomas More
và Đại úy Patty sống cùng với Hồ Chí Minh trong hang Pắc Pó đã báo cáo Hồ Chí
Minh tên thật là Nguyễn Ái Quốc, nhận chỉ thị của Đệ tam quốc tế CS nên vẫn
sinh hoạt đảng, hát quốc tế ca, học tập chủ nghĩa Mác Lê. Chính vì vậy, Hoa Kỳ
đã không công nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Nếu là bất cứ người Việt Nam nào thì
vận mệnh đất nước Việt Nam đã thay đổi ngay từ lúc đó, nếu không độc lập ngay
thì cũng hưởng qui chế chế độ Ủy trị của Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt là sau thế
chiến lần thứ hai, với sự ra đời của Liên Hiệp Quốc và nhất là chủ trương giải
thực của Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt đã mở đầu cho phong trào dân tộc tự quyết
của các quốc gia Đông Nam Á. Indonesia tuyên bố độc lập ngày 17 tháng 8 năm
1945, Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Philippines năm 1946, Burma giành lại độc lập
từ tay người Anh năm 1948 và Pháp chính thức rút khỏi Đông Dương sau hiệp định
Genève 20-7-1954. Người Anh đã trao lại độc lập cho Malaya năm 1957 và sau đó
là Singapore, Sabah và Sarawak năm 1963 trong khuôn khổ Liên bang Malaysia Từ thực tế lịch sử trên, nếu Hồ Chí Minh
không đem chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam thì đất nước chúng ta đã độc lập mà
không phải hy sinh oan uổng hàng triệu người Việt Nam vô tội cho tham vọng xâm
lược bành trướng của Cộng sản. Chính Cộng Sản Việt Nam đã phản bội kháng chiến
để thỏa hiệp với thực dân Pháp, ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia đôi
đất nước trong lúc cao trào kháng chiến của toàn dân đang trên đà thắng lợi.
Chính phủ quốc gia Việt Nam không đặt bút
ký kết hiệp định Genève để phản đối sự cấu kết giữa Cộng sản và thực dân Pháp
chia đôi đất nước. Nguồn sử liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này cho biết
Trung ương đảng đã nhận chỉ thị của đảng Cộng Sản Trung Quốc phải ký kết chia
đôi đất nước. Ngay khi vừa ký hiệp định, Cộng Sản Việt Nam đã chỉ thị cho 85
ngàn đảng viên chưa bị lộ rút vào hoạt động bí mật, chôn giấu hơn 1 vạn súng và
nhiều điện đài. Đến năm 1955, bộ máy chỉ đạo của đảng từ xứ ủy, tỉnh ủy đến huyện
ủy đã được sắp xếp xong và chuyển hướng hoạt động bí mật chờ thời cơ. Ngày 8-9-1954, Liên minh Phòng thủ Đông Nam
Á (Southeast Asia Treaty Organization gọi tắt là SEATO) được thành lập bao gồm
8 nước là Australia, Pháp, Anh, New Zealand, Pakistan, Philippine, Thái Lan và
Hoa Kỳ để ngăn chặn sự xâm lược của chủ nghĩa Cộng Sản xuống Đông Nam Á. Ngày
20-11-1954, Thủ tướng Pháp Mendès France viếng thăm Hoa Kỳ xác nhận: “Chấm dứt
sự kiểm soát của Pháp về kinh tế, thương mại và tài chánh tại Việt Nam: Chuyển
giao quân đội Quốc gia cho Việt Nam, chuyển giao trách nhiệm huấn luyện quân đội
quốc gia cho Hoa Kỳ và rút hết quân đội Viễn chinh Pháp ra khỏi Việt Nam”. Ngày
9-8-1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố chính phủ của ông không ký hiệp định
nên không bị ràng buộc bởi hiệp định Genève và việc bầu cử không thể thực hiện được “Chừng nào mà chế độ Cộng Sản
chưa cho phép người dân Việt nam được hưởng những quyền tự do dân chủ và những
quyền căn bản của con người.”.
Ngay sau khi vừa đặt bút ký hiệp định
Genève, Ban chấp hành trung ương đảng Lao Động trá hình của đảng Cộng Sản Việt Nam đã họp để chuẩn
bị sách lược đấu tranh thống nhất đất nước. Các cơ sở đảng để lại sau hiệp định
có nhiệm vụ phát động nhân dân đấu tranh chính trị đòi hiệp thương giữa 2 miền
Nam Bắc, thực hiện tổng tuyển cử, phong trào hòa bình Sài Gòn Chợ Lớn đòi các
quyền tự do dân chủ… Để đối phó với các hoạt động nằm vùng này, giữa năm 1955,
chính phủ Ngô Đình Diệm cho phát động chiến dịch “Tố Cộng” trên toàn quốc. Trước
những thiệt hại nặng nề này, Cộng Sản Việt Nam quyết định tiến hành khủng bố và
ám sát những viên chức địa phương, những giáo viên có lập trường quốc gia. Theo
báo cáo của tòa Đại sứ HK thì cuối năm 1960 đã có 700 viên chức Việt Nam Cộng
Hòa bị sát hại. Tháng giêng năm 1959, đảng Lao Động (CSVN) ra nghị quyết kết hợp
đấu tranh chính trị với lực lượng vũ trang, chuyển người và vũ khí vào miền
Nam. Tháng 3 năm 1959, chính phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt Việt Nam Cộng Hòa
trong tình trạng chiến tranh. Sau khi Trung Cộng đánh chiếm Tây Tạng năm
1959, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta
phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan,
Miến Điện, Malaysia và Singapore.Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng
ta phải chiếm cho bằng được …” nên tháng 4 năm 1959, Ủy ban Trung ương đảng
họp lần thứ 15 quyết định dùng vũ lực xâm chiếm miền Nam. Ngày 20-12-1960, Mặt
Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam do LS Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch được thành lập
với chiêu bài “Đánh đổ chế độ thuộc địa
trá hình của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng một miền Nam
độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập, tiến tới thống nhất tổ quốc”.
Đầu năm 1961, quân đội giải phóng Miền Nam
Việt nam hoạt động mạnh với 3 thành phần gồm đội quân chủ lực là binh sĩ miền Bắc
và cán bộ tập kết trở về, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ hoạt động hiệu qủa
ở miền Nam. Chính phủ Hoa Kỳ đưa ra sách lược chống du kích do sir Robert
Thompson người Anh cố vấn cho chính phủ Ngô Đình Diệm, đồng thời gia tăng quân
số, vũ khí với sự giúp đỡ của cố vấn Hoa Kỳ. Giữa năm 1961, kinh tế gia Eugene
Staley được phái sang cố vấn chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Ấp Chiến lược
để tách rời dân chúng ra khỏi sự kiểm soát khống chế của quân Cộng sản. Ngày
11-10-1961, Thống tướng Maxwell Taylor được TT Kennedy cử sang nghiên cứu tình
hình nghiêm trọng của VN về phúc trình lên TT là để ngăn chặn quân xâm nhập từ
miền Bắc qua biên giới Lào cần ít nhất là 3 sư đoàn quân chiến đấu Mỹ. Bản phúc
trình của bộ trưởng quốc phòng Mac namara và bộ trưởng Ngoại giao Dean Rush đều
nhấn mạnh trách nhiệm của Hoa Kỳ là phải bảo vệ Việt Nam khỏi rơi vào tay Cộng
sản. Bản phúc trình viết “… Chúng ta phải
chuẩn bị để đưa lực lượng chiến đấu Hoa Kỳ vào Việt Nam nếu điều đó cần thiết để
thành công. Tùy theo hoàn cảnh, có thể quân đội Hoa Kỳ cũng phải đánh vào nguồn
xâm lược ở Bắc Việt”.
Trước tình hình này, TT Ngô Đình Diệm ban
bố tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc ngày 15-10-1961. Ngày 3-2-1962, thành lập
ủy ban trung ương đặc trách ấp chiến lược do cố vấn Ngô Đình Nhu chỉ huy. Theo
báo cáo kết qủa 1 năm thực hiện đã lập xong 5.917 ấp chiến lược qui tụ 8 triệu
dân. Bộ chỉ huy yểm trợ Quân sự Hoa Kỳ (MACV) được thành lập, số cố vấn quân sự
tăng từ 700 lên 12.000 người vào giữa năm 1962.
Ngày 23-7-1962, Hiệp định Trung lập Lào được
ký kết, phe tả đã đưa Pathet Lào vào chính phủ liên hiệp để không cho Hoa Kỳ
can thiệp vào tình hình Lào. Đồng thời, quân Cộng sản vẫn sử dụng đường mòn Hồ
Chí Minh ở phiá Đông do phe Pathet Lào kiểm soát để chuyển vận ồ ạt vũ khí đạn
dược vào chiến trường miền Nam. Từ năm 1962, đường mòn được mở rộng để cho những
đoàn xe tải dài từ 50 đến 75 dặm (miles) di chuyển vào ban đêm dưới sự bảo vệ của
trên 70 ngàn quân chính qui Cộng sản. Mỗi tháng có thể chuyển được 8 ngàn quân
và 10 ngàn tấn vũ khí đạn dược cung ứng cho nhu cầu chiến trường ngày càng ác
liệt.
No comments:
Post a Comment