Monday, October 31, 2016






TÊN NƯỚC VIỆT NAM CÓ TỰ BAO GIỜ?

Việt Nam Việt Nam nghe tự vào đời
Việt Nam hai câu nói trên vành môi
Việt Nam Nước Tôi…

     Quốc hiệu Việt Nam chính thức có từ năm 1804 thời vua Gia Long nhà Nguyễn. Thực ra tên nước Việt Nam đã có từ lâu.

      Các nhà nghiên cứu xác nhận tên Việt Nam xuất hiện lần đầu tiên trong quyển sách “VIỆT NAM THẾ CHÍ” của Tiến sĩ Hồ Tôn Thốc dưới triều Trần Nghệ Tông (1370-1372).

     Danh nho Nguyễn Trãi trong tác phẩm “DƯ ĐỊA CHÍ” soạn vào khoảng năm 1428-1430 viết: "Trong sách chương của Thiên Vương có gọi Việt Nam, Nam Việt, Giao Chỉ, An Nam, Nam Bình, ngày nay cũng xưng là Việt Nam" và "Vua Ðế Minh trao cho Kinh Dương Vương làm Việt Nam Vương".

     Thi tập “TRÌNH TIÊN SINH QUỐC NGỮ” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) mở đầu cũng viết:"Việt Nam khởi tổ xây nền".

     Ngoài ra chúng ta cũng tìm thấy hai chữ Việt Nam trong một số văn bia thế kỷ thứ 17, có khắc tên nước là Việt Nam như:

. Văn bia "Hạ Trùm Trưởng Quan Bi Ký" ở Bắc Ninh, tạo dựng năm 1649 mở đầu viết: "Việt Nam Triệu quốc, Kinh Bắc định vương. Yên Phong Mỹ huyện. Mẫu Xá danh hương". 

. Bia "Thế Tồn Bi Ký" tạo vào năm 1670 tại Ðồng Ðăng, Lạng Sơn, mở đầu khắc: "Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc Ải quan. Thạch bích hoàn vụ Uyên quận giới phiên. Ðồng Ðăng Linh ấp...". 

. Bia "Hậu thần bi ký", tạo năm 1690 ở Từ Phong, huyện Quế Võ, Bắc Ninh, mở đầu: "Việt Nam cảnh giớị Bắc nhất vi tiên. Từ Sơn mỹ hi. Hữu thị miếu triều".

    Nhà bác học Lê Quý Ðôn (1724-1784) trong bộ Bách Khoa Vân Ðài Loại Ngữ, đã dùng hai chữ Việt Nam trong câu: "Nay xét tục ngữ Việt Nam...".

     Tác phẩm “Phương Đình Dư Địa Chí” của Nguyễn Siêu cũng viết “Nước Việt Nam là nước ở miền ven biển, là đất của 7 quận đời Hán, 3 quận đời Tần”. Nguyễn Siêu căn cứ vào sách “An Nam Cương vực Bị lục” của Cố Viêm Vũ, Sách này đã bị triều Thanh tịch thu vì không muốn người Hán gốc Việt tưởng nhớ về cội nguồn, về quê cha đất tổ. 

     Năm 1804, vua Gia Long gửi quốc thư gửi cho vua Thanh đề nghị dùng tên nước Nam Việt để làm quốc hiệu như sau:

“Mấy đời trước mở đất Viêm Giao càng ngày càng rộng gồm cả nước Việt Thường và nước Chân Lạp đặt tên nước là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay tôi lấy hết cõi Nam, có toàn cõi đất Việt nên theo hiệu cũ Nam Việt để chính quốc danh”.


     Thế nhưng triều Thanh sợ đặt lại vấn đề lãnh thổ Văn Lang của Việt tộc nên không chấp nhận tên Nam Việt nên đề nghị tên Việt Nam và chỉ chấp nhận tên Việt Nam. Vô hình trung, triều Thanh của Hán tộc lại lấy tên Việt Nam xưa cũ đã được danh nhân Nguyễn Trãi viết trong “Dư Địa chí” (1428-1430): “Vua Đế Minh trao cho Kinh Dương Vương làm Việt Nam Vương. Vua đầu tiên Kinh Dương Vương sinh ra có thánh đức của bậc Thánh nhân, được phong sang Việt Nam làm tổ Bách Việt”.  Sách “An Nam Chí” của Lê Tắc cũng xác nhận việc Hán văn Đế triều Hán trả lại đất Lĩnh Nam cho người Việt mà Triệu Vũ Đế phải là người Việt, nước Nam Việt phải là Việt Nam nên chính vua Hán mới trả lại cương giới của Bách Việt cho Triệu vũ Đế.

No comments:

Post a Comment