TRUYỀN THUYẾT KHỞI NGUYÊN DÂN TỘC (Tiếp Theo)
TRUYỀN THUYẾT KHỞI NGUYÊN DÂN TỘC
Tự thân truyền thuyết đã chiếu
giải trung thực ý nghĩa của những sự kiện lịch sử sau:
VIỆT TỘC
HẬU DUỆ CỦA ĐẾ THẦN NÔNG
Truyền thuyết đã được xác nhận bởi nguồn
sách sử cổ Trung Quốc là dòng Thần Nông phương Bắc định cư ở Bắc lưu vực Hoàng
Hà, truyền đến đời Du Võng tràn xuống phương Nam giao chiến với Xi Vưu (Li Vưu)
cuối cùng bị Hoàng Đế đánh đuổi và chết ở Lạc Ấp. Dòng Thần Nông phương Nam do
Kinh Dương Vương, thủ lĩnh của liên minh bộ lạc ở Châu Kinh và Châu Dương ở
vùng lưu vực sông Dương Tử hình thành nhà nước Xích Quy ban sơ của Việt tộc.
Truyền thuyết cho ta biết là các chi tộc Việt vẫn chung sống hài hòa, điều này
được thể hiện qua việc Lạc Long Quân con của Kinh Dương Vương, dòng Thần Nông
phương Nam lấy công chúa Âu Cơ con của Đế Lai dòng Thần Nông phương Bắc. Đây
chính là sự hợp nhất 2 dòng Thần Nông Bắc và Nam Hoàng Hà để truyền lưu mãi tới
ngày nay. Đây chính là cốt lõi của vấn đề, ý nghĩa cao cả của việc Lạc Long
Quân lấy Âu Cơ chính là để nói lên sự hợp nhất của 2 dòng Thần Nông Bắc và Nam
mà người xưa muốn nhắn gửi cho đời sau.
Truyện cổ tích họ Hồng Bàng kể lại: “Lạc Long Quân thay cha trị nước, dạy dân
cày cấy, ăn mặc. Trong nước từ đây mới có thứ tự quân thần, tôn ti trật tự, xã
hội mới có luân thường đạo lý giữa cha con, vợ chồng”. Sách sử cổ ghi rõ là
Bố Lạc dạy dân cách cày cấy ăn mặc, vua tôi vợ chồng có luân thường đạo lý.
Người Việt gọi phụ (cha) là Bố, gọi vương (vua) là Quân. Truyền thuyết cũng cho
biết rằng Việt tộc là hậu duệ của Đế Viêm Thần Nông mà hình tượng là Totem phức
thể “Đầu người, thân trâu” là ông Tổ của nghề nông. Truyền thuyết kể lại rằng
Thần Nông uốn gỗ làm “lỗi”, đẽo gỗ làm “trĩ” là những dụng cụ dùng sức kéo để
vạch thành luống đất, dạy dân cày cấy. Cổ sử chép chi Lạc bộ Trĩ định cư ở Sơn
Đông chính là chi Lạc có vật biểu là chim, làm ruộng trồng lúa nước mà sử Trung
Quốc xuyên tạc bộ Trĩ còn gọi là bộ Trãi chỉ côn trùng để miệt thị dân tộc
Việt.
Theo
”Bách Việt Ngọc phả Truyền thư” thì chỉ có nhị hoàng chứ không phải tam hoàng
như sách sử Trung Quốc chép từ trước đến giờ. Phục Hy còn gọi là Đế Thiên
(2698-2599 TDL), họ Hiên Viên có tên thụy là Thái Hạo thờ rồng. Truyền thuyết
dân gian kể rằng bà Hoa Lư nhân khi đi qua đầm Lôi Trạch, dẫm lên vết chân khổng
lồ của Lôi Thần, vị thần Rồng cảm ứng mà sinh ra Phục Hy. Là con của Thần Rồng
nên Phục Hy mang hình tượng đầu và mình là người, phần dưới là thân Rồng. Phục
Hy và Nữ Oa cũng nửa người nửa Rồng mà trong một bức phù điêu chạm nổi hình hai
người, đuôi quấn lấy nhau, tay Phục Hy cầm tượng mặt trời, tay Nữ Oa cầm tượng
mặt trăng biểu tượng cho Âm Dương giao hòa, tương sinh tương khắc của Âm Dương
Dịch Biến Luận. Phục Hy truyền ngôi cho con là Thần Nông tức Đế Thần, họ Khương
tên thụy là Thiếu Hạo thờ chim. Như vậy, nhị Hoàng gồm Phục Hy họ Thái Hạo thờ
Rồng và Thần Nông họ Thiếu Hạo thờ chim là của Việt tộc.
Truyền thuyết cho chúng ta biết rằng Việt
tộc là hậu duệ của Đế Viêm Thần Nông. Truyền thuyết cũng nói tới dòng Thần Nông
phương Bắc, dòng Thần Nông phương Nam nên một số người hiểu sai lầm rằng người
Trung Quốc (Tàu) là dòng Thần Nông phương Bắc, Việt Nam là dòng Thần Nông
phương Nam nên cho rằng ta với Tàu là cùng một gốc và người Việt Nam là từ
người Tàu mà ra. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về cội nguồn dân tộc từ truyền
thuyết, từ những mảnh vụn của lịch sử để phục hồi sự thật là một điều hết sức
cần thiết. Chân lý khách quan của lịch sử sẽ sáng tỏ, trả lại những gì sự thật
lịch sử cho lịch sử chính là ước vọng ngàn đời của tất cả chúng ta, những con
dân đất Việt hôm nay.
Chính Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử ký nổi
tiếng được xem là đại biểu cho sử quan chính thống của Hán tộc đã viết Hoàng
Đế, thủ lĩnh của liên minh bộ lạc trung nguyên là người mở đầu lịch sử Trung Quốc
mà không hề nhắc gì tới Phục Hy, Thần Nông. Ngày nay, các nhà Trung Hoa học đều
thống nhất quan điểm là trước khi Hán tộc tràn xuống chiếm lĩnh Trung nguyên
thì tộc người mà cổ sử Trung Quốc gọi là “Di Việt” đã làm chủ trung nguyên từ
lâu. Các học giả uyên bác của Trung Quốc như V. K.Tinh, Wang Kwo Vu đều xác
định là tất cả huyền thoại về các vị vua cổ xưa đều không thấy ghi chép gì
trong “Giáp cốt” đời Thương. Nếu Hoàng Đế là người khai mở lịch sử Trung Quốc
thì chắc chắn phải ghi rõ trong giáp cốt đời Thương. Thực ra, sự tích tên tuổi
của các nhân vật huyền sử Phục Hy, Thần Nông mới được nhắc tới trong sách sử
vào thời Xuân Thu Chiến quốc là thời kỳ hưng thịnh của Bách Việt. Nhóm Tân học
“Nghi Cổ Phái” do nhà văn Quách Mạt Nhược chủ xướng đã chính thức bãi bỏ thời
Tam Hoàng, Ngũ Đế là của Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc chỉ thực sự bắt đầu từ
triều Thương, Chu. Lương Khải Siêu, nhà chính trị nổi tiếng một thời của Hán
tộc cũng phải thừa nhận là lịch sử Trung Quốc mới chỉ có khoảng 4 ngàn năm nay
mà thôi.
Thời Xuân Thu là thời kỳ phục hưng của
Việt tộc với sự trổi dậy của các quốc gia Bách Việt, hết Ngô đến Việt xưng “Bá”
rồi tới Sở lãnh đạo liên minh 6 nước trung nguyên chống Tần giành quyền thống
lĩnh trung nguyên. Chính vì vậy, thời kỳ này mới xuất hiện các nhân vật huyền
sử Việt từ Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Đế Hoàng (Hoàng Đế) tới Nghiêu Thuấn, Vũ
nhà Hạ của Việt tộc. Chính Khổng Tử, người được xem là bậc thầy muôn đời của
Trung quốc cũng biết rõ điều này nên chưa hề nhắc tới nhân vật Hoàng Đế của
Trung Quốc mặc dù Khổng Tử đã xác nhận rõ là theo phò triều Chu.
Trong khi đó, các tác phẩm Cổ sử Khảo, Tam
ngũ Lịch, Đông Kỷ, Đế vương Thế kỷ thì tất cả đều khẳng định rằng Thần Nông có
liên quan huyết thống với Việt tộc. Nói cách khác, Việt tộc chính là hậu duệ
của Thần Nông. Cổ thư Trung Hoa chép đời Nghiêu Thuấn đánh dẹp họ Cộng Công của
Hán tộc vì đã tranh ngôi với Chúc Dung là hậu duệ của Đế Viêm Thần Nông. Vua
các nước Trịnh và hoàng tộc một số nước ở bán đảo Sơn Đông như Tề, Lỗ, Trần đều
nhận họ là con cháu Thần Thái Sơn và lấy họ Khương của Thần Nông. Cổ sử ghi lại
là năm thứ sáu đời Chu Thành Vương 1100 TDL, Việt Thường cử sứ giả đến triều
Chu biếu một con chim Bạch Trĩ, quan Trủng Tể Chu Công Đán nhớ lời Hoàng Đế có
lời thề rằng: “Giao Chỉ ở ngoài phương
xa… không được xâm phạm”.
Nguồn sử liệu trên cũng hé mở cho chúng ta
thấy là Hoàng Đế có liên hệ huyết thống với Việt tộc. Theo Từ Hải thì Hoàng Đế,
Xi Vưu (Li Vưu) đều là những thị tộc trưởng nên sở dĩ có chiến tranh là để
giành ngôi vị thủ lĩnh mà thôi. Gần đây, học giả Eberhard một nhà Trung Hoa học
nổi tiếng đã công bố một sự thật là vào khoảng năm 450 TDL, một người viết sử
đã đưa Hoàng Đế nguyên là một vị thần
trong địa phận Sơn Đông lên làm vị vua đầu tiên của Hán tộc. Nếu Hoàng
Đế là một nhân vật có thật thì Đế Hoàng ở Sơn Đông phải là người Việt cổ, hậu
duệ của Thần Nông. Sơn Đông là địa bàn cư trú của Lạc bộ Trĩ (bộ Trãi ) của
Việt tộc mà cổ sử Trung Quốc gọi là rợ Đông Di nên vị thần Đế Hoàng chính là
người Việt cổ nhưng sử gia Tư Mã Thiên nhận là thủy tổ của người Trung Quốc
(Hán tộc) nên viết Đế Hoàng theo cú pháp Hán tự là Hoàng Đế. Truyền thuyết xưa
cũng kể rằng Thần Nông và Hoàng Đế có cùng một ông Tổ là Thiếu Điển. Cổ thư
Trung Hoa cũng chép rằng Thương Hiệt đời Hoàng Đế đã theo dấu chân chim, vật tổ
biểu trưng của Việt tộc mà đặt ra lối chữ gọi là “Điểu Triện”. Đến thời Chu
(Trung Quốc), Thái sử Trứu mới sửa đổi thành lối chữ Đại Triện của Trung Quốc
còn gọi là Trứu Thư. Tất cả các chứng cứ trên đã góp phần làm sáng tỏ sự thật
lịch sử, phục hồi chân lý khách quan của lịch sử đó là nhân vật Đế Hoàng là
người Việt cổ chứ không phải thủy tổ của Hán tộc như Tư Mã Thiên đã viết. Như
vậy, thời đại “Tam Hoàng, Ngũ Đế” chỉ có Nhị Hoàng gồm Phục Hy họ Thái Hạo thờ
Rồng và Thần Nông họ Thiếu Hạo thờ chim là của Việt tộc. Ngũ Đế gồm Đế Hoàng,
Đế Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn đều là người Việt cổ.
Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư ghi về Thần
Nông như sau: “Đế Thần là con Đế Viêm
(con cháu Phục Hy) còn trẻ tự xưng là Thần Nông. Đế Thần cai quản từ Trường
Giang trở về Nam. Thần Nông được thừa hưởng sự nghiệp của Tổ Tiên lên ngôi vua
sáng, thi hành chính nhân sáng suốt. Dân chúng một lòng kính yêu. Từ phía Tây
trở xuống, lấy ngọn Phương Lãnh Trầm Đỉnh làm chính và ngọn Linh Sơn, Tiên Lữ,
tiếp đến Phong Châu làm một dải. Ông dạy dân làm ruộng là chính. Thần Nông lấy
lá chữa bệnh, cứu dân độ thế… Thần Nông phát minh ra nghề cấy trồng lúa nước và
phát minh sáng chế ra lưỡi cày bằng gỗ cứng để cho dân làm ruộng. Người dân làm
ruộng, cày cấy lúa nước thường lấy vỏ cây che thân để chắn bùn gọi là cái
thường (tức cái váy, cái xiêm) lan rộng từ Nam đến Bắc. Do đó người ta thường
gọi là họ Việt Thường”.
Công trình nghiên cứu mới đây nhất về Hán
ngữ và các phương ngữ Bách Việt ở Trung nguyên đã xác định chỉ có người Hakka
(Hẹ) là Lạc bộ Trãi ở vùng sông Bộc và bán đảo Sơn Đông có phát âm tương tự với
Hán Việt và tiếng nôm của Việt tộc [Ngieu] còn tiếng Quan Thoại và các phương
ngữ khác đọc khác.4 Sự kiện này chứng tỏ thêm rõ là Đế Nghiêu là
người Việt cổ. Cổ sử Trung Hoa cũng cho biết họ Đào Đường tức Đế Nghiêu đóng đô
ở Bình Dương thuộc Sơn Tây. Đế Nghiêu truyền ngôi cho Đế Thuấn đóng đô ở Bồ Bản
cũng thuộc Sơn Tây, Thuấn truyền ngôi cho Vũ lập ra nhà Hạ. Mạnh Tử xác nhận vua
Thuấn là người Đông Di và từ điển Từ Hải cũng xác định là tổ tiên và con cháu
Thuấn đều được phong ở đất Đông Di. Thế mà Tư Mã Thiên, sử quan chính thống Đại
Hán lại bao biện cho rằng Thuấn bị xem là người Đông Di vì thói quen hồi đó gọi
là như thế. Luận điệu này không có tính cách thuyết phục. Tại sao lại có thói
quen gọi một người đồng chủng nhất là một vị vua là rợ Đông Di? Chính bản thân
Tư Mã Thiên chỉ can gián vua mà đã bị tội “Cung Hình” phải cắt bỏ bộ phận sinh
dục huống chi gọi vua là man di mọi rợ, chắc chắn phải bị tru di tam tộc! Trong
khi đó, chính sách cổ Trung Hoa chép là vua Thuấn lấy vợ Việt và về ở rể tại
nhà vợ. Sách Lễ Ký viết: “Đế Thuấn là một
nông dân Việt ở Lôi Trạch đã phát minh ra đàn huyền 5 dây để ca bài Nam Phong
và ông Quy chế ra nhạc để thưởng chư hầu”.
Theo Mã Đoan Lâm trong sách “Văn hiến
Thông khảo” thì lúc đầu Tam Miêu không chịu phục nên vua Thuấn đã sai Vũ đi
đánh cũng không được nên Thuấn chế ra đàn huyền 5 dây để hát bài Nam Phong. Cổ
thư chép là cả Vua Thuấn và ông Vũ đều mặc áo lông chim rồi cầm khiên múa điệu
vũ Li Vưu.5 Cổ thư chép vua
Vũ được ban cho “Cửu Trù” cũng là “Cửu Đỉnh” nên vua chia nước ra 9 châu. Kim
Định trích dẫn Danses kể lại truyền thuyết về vua Vũ khi đi trị thuỷ, đào sâu
xuống lòng sông thì gặp mả của Phục Hy, khi mở ra thấy Phục Hy đang quấn đuôi
Nữ Oa. Vua Đại Vũ cũng được ban cho sách “Lạc thư” cũng trên dòng sông Lạc.
Miền Trung và Hạ lưu sông Hoàng Hà có 2 con sông cùng có tên là sông Lạc. Một ở
ngã ba Tam Giang Bắc của người Việt cổ chi Lạc bộ Chuy ở vùng Thiểm Tây, Sơn
Tây và một ở Bắc tỉnh Hà Nam viết với bộ Thuỷ. Hai thuỷ danh gắn liền với tộc
danh đã chứng tỏ vua Đại Vũ là người Việt vì chỉ có ông Vũ mới được thiên duyên
là rùa thần nổi lên trên sông Lạc, đội quyển sách “Lạc thư” có ghi 9 điều khoản
để trị nước. Nói cách khác, huyền sử cho chúng ta thấy rằng quyển sách đó là
tinh hoa Việt bao gồm “Hồng phạm Cửu trù” với “Lạc Thư” để vua Vũ lập ra nhà Hạ
của Việt tộc.
Vấn đề gốc tích vua Vũ lại sáng tỏ khi cổ
sử Trung Hoa còn ghi rõ là năm Quý Tỵ (2.198 TDL), vua Đại Vũ nhà Hạ hội chư
hầu ở Cối Kê thuộc U Việt. Năm Quý Mão 2.085 TDL, vua Thiếu Khang nhà Hạ phong
cho con thứ là Vô Dư ở đất Việt. Sử sách còn ghi lại là vua Thuấn tuần du
phương Nam rồi chết ở núi Thương Ngô. Núi Thương Ngô trước tên là núi Cửu Nghi
ở miền Bắc tỉnh Hồ Nam là địa bàn cư trú của Bách Việt. Hai bà vợ đi theo buồn
rầu than khóc rồi chết bên bờ sông Tương nên dân gian lập đền thờ hai bà gọi là
“Tương Phi”. Sông Tương bắt nguồn từ Long Uyên chảy vào hồ Động Đình và lên tới
vùng Ba Thục cũng là đất Bách Việt (Bai-Yue). Dân gian còn lập đền thờ Sương
Quân là con gái vua Nghiêu ngay bên hồ Động Đình.
Cổ thư Trung Hoa chép lại rằng vua các
nước Ngô, Việt đều tự hào là con cháu Hoàng Đế và vua Đại Vũ nhà Hạ. Chính Tư
Mã Thiên trong “Sử ký” cũng chép rằng tổ tiên của Câu Tiễn, vua nước Việt thời
Xuân Thu là dòng dõi vua Vũ. Hiện ở núi Cối Kê tỉnh Triết Giang Trung Quốc bây
giờ vẫn còn đền thờ vua Vũ, nơi mà ngày xưa vua Vũ đã đến hội chư hầu tại đây.
“Sử Ký” cũng chép rằng vua nước Sở nhận
rằng là hậu duệ của Hoàng đế Hiên Viên. Hùng Dịch người được triều Chu phong
cho ở đất Sở là cháu vua Kinh Man là Chuyên Húc (còn gọi là Xuyên Húc) ông tổ
của nhà Hạ. Cổ thư ghi rõ Chuyên Húc thuộc dòng họ Cao Tân Cao Dương của Việt
tộc còn lưu lại dấu ấn trong sự tích trầu cau. Đế Cốc thay Đế Chuyên Húc lại là
cháu của vua Thiếu Hạo, dòng Thần Nông thờ chim là vật biểu, chính là chi Âu
Việt (tộc thờ chim) của tộc Việt. Đế Nghiêu họ Đào Đường là con thứ của Đế Cốc,
em Đế Chí nhưng vì Đế Chí nhu nhược nên chư hầu tôn Nghiêu lên làm vua lấy hiệu
là Đường Nghiêu. Sự thật lịch sử này sẽ làm đảo lộn tất cả những sử sách kinh
điển của Hán tộc viết theo lý của kẻ mạnh để “Lộng giả thành chân” khiến mọi
người tin theo bao đời nay.
VIỆT TỘC KẾ THỪA TRIẾT LÝ ÂM
DƯƠNG
Tư Mã Thiên đại biểu cho sử quan chính
thống của Hán tộc viết Hoàng Đế, thủ lĩnh cộng chủ của liên minh các bộ lạc là
ông Tổ của Hán tộc. Tư Mã Thiên đã để Hoàng Đế đứng đầu ngũ đế gồm Hoàng Đế, Đế
Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Theo “Sử ký” thì Hoàng Đế (2700-2600
TDL) là tổ tiên lỗi lạc của Hán tộc ở lưu vực Hoàng Hà. Từ đó, các sử gia Hán
cho rằng Hoàng Đế là Hiên Viên Hoàng Đế, là hậu duệ của Viêm Đế là người kế
thừa triết lý Âm Dương. Thật ra đây là một sự cố ý mạo nhận theo lý của kẻ mạnh
mà thôi.
Sự thật lịch sử chứng minh rằng Hoàng Đế
không phải là người khai mở lịch sử Trung quốc và lịch sử Trung Quốc chỉ mới
bắt đầu từ triều Thương, Chu mà thôi. Tự thân triết thuyết Rồng Tiên qua lời
trần tình của Bố Lạc với Mẹ Âu Cơ, 50 con theo Mẹ (Âm) lên núi, 50 con theo Cha
(Dương) xuống miền biển đã thể hiện lý tương sinh-tương khắc, tinh tuý cốt lõi
của triết lý Đông Phương. Truyền thuyết kể lại lời trần tình của bố Lạc với mẹ
Âu: “Ta là giống Rồng đứng đầu thuỷ phủ,
Nàng là giống Tiên người ở trên đất, vốn không ở lâu dài với nhau được. Tuy khí
âm dương hợp lại mà sinh con nhưng giống dòng tương khắc như nước với lửa, khó
bề ở lâu dài với nhau dài lâu được. Nay phải chia ly, ta mang 50 con trai về
Thuỷ Phủ chia trị các nơi, còn 50 con theo nàng về ở trên cao, có việc cùng gắn
bó đừng bỏ rơi nhau..!”. Như vậy ngay từ thiên niên kỷ thứ 3 TDL, lời nói
của bố Lạc một lần nữa đã chứng minh Việt tộc là người kế thừa sở đắc triết lý
Âm Dương. Sự kiện bố Lạc phân chia bọc trăm trứng ra 2 bộ âm dương vừa tương
sinh vừa tương khắc, tuy hai mà lại là một. Lạc Long Quân (Dương) là Rồng ở
dưới nước nên dẫn 50 con về về miền sông nước (âm) còn Âu Cơ là Tiên (âm) lại
dẫn 50 con lên miền cao rừng núi (Dương) theo đúng nguyên lý Dịch là trong âm
có dương, trong dương có âm. Sự thực trên đã minh nhiên khẳng định Việt tộc là
người thừa kế triết thuyết Âm Dương Dịch Biến Luận khởi từ Phục Hy tới Thần
Nông tức Đế Thần của Việt tộc. Sự thật lịch sử này được ghi lại trong sách
“Kinh Thư”, phần mở đầu chỉ đề cập đến Nhị Hoàng là Phục Hy và Thần Nông. Việc
Kinh Dịch chọn 2 quẻ dành cho 2 con vật Rồng- chim (Tiên) linh thiêng, vật tổ
biểu trưng của Việt tộc đã minh nhiên xác định nguồn gốc xuất xứ của Kinh Dịch.
Đến đời Chu, Chu văn Vương tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Việt rồi biến cải
thành Chu Dịch thiên về bói toán chứ không phải là tinh hoa triết lý Âm Dương
Dịch biến luận thể hiện nhân sinh-vũ trụ quan của Việt tộc.
Các công trình
nghiên cứu gần đây về nguồn gốc chữ Việt cổ đã góp phần phục hồi sự thật của
lịch sử. Tầm nguyên ngữ nghĩa của chữ Việt cho thấy sách sử cổ Trung Hoa viết
rất nhiều chữ Việt khác nhau, trong đó có chữ “Việt 易” là chữ Dịch “易”, là mặt trời (“Nhật 日 Việt”). Tự thân ngữ nghĩa này đã xác định Kinh “Dịch 易 ” là kinh “Việt 易 ”.6 “Triết lý Âm Dương hình thành từ thực tiễn
đời sống nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, hai từ “Âm Dương” bắt nguồn từ
hai từ “mẹ” và “trời” trong các ngôn ngữ Đông Nam Á (ina – yang). Cặp khái
niệm “âm dương” với trật tự âm trước dương sau được hình thành trên cơ sở tổng
hợp hai cặp khái niệm quan trọng bậc nhất trong cuộc sống của người trồng lúa
nước là “mẹ cha” và “đất trời”. Nó mang đậm nét dấu tích của một truyền thống
văn hoá trọng nữ Đông Nam Á, khác hẳn truyền thống trọng nam của
Trung Hoa thể hiện qua hai cặp từ “phụ mẫu” và “thiên địa”. Biểu hiện của tư
tưởng Âm Dương ngũ hành trong mọi lĩnh vực phong tục, tập quán, truyền thuyết
của Việt Nam từ xưa đến nay như những minh chứng cho tính nguyên thủy, tính tự
phát của tư tưởng Âm Dương, lưỡng phân lưỡng hợp trong truyền thống văn hoá
Việt Nam và Đông Nam Á.” 7
CỘNG ĐỒNG BÁCH VIỆT: HIỆN THỰC LỊCH
SỬ
CỦA TRUYỀN KỲ “TRĂM TRỨNG NỞ
TRĂM CON”.
Chúng ta đang sống trước thềm của thiên
niên kỷ thứ ba của nhân loại nên mỗi khi nghĩ về huyền thoại Rồng Tiên thì
thoạt đầu, ai trong chúng ta cũng nghĩ rằng là truyện huyền hoặc, hoang đường.
Dù có tự hào là con Rồng cháu Tiên nhưng với ý nghĩ đơn giản của đời thường,
chúng ta vẫn hoài nghi vì trên đời làm gì có truyện người đẻ ra trứng, rồi
trứng nở ra người? Với tất cả tấm lòng và thái độ trân trọng nghiêm chỉnh và
với phương pháp nghiên cứu huyền thoại để tự đặt mình vào hoàn cảnh lịch sử
thời cổ đại thì những ẩn ý hàm tàng trong huyền thoại sẽ gợi mở sáng tỏ, minh
nhiên lý giải những vấn nan khúc mắc tự ngàn xưa. Có một thực tế mà chúng ta
phải hiểu rõ đó là tất cả các dân tộc thời cổ đại đều tin tưởng thần linh chở
che trong mọi sinh hoạt cuộc sống. Thật vậy, khi con người vừa bước ra khỏi
thời kỳ ăn lông ở lỗ của thuở hồng hoang để bước vào hình thái xã hội ban sơ,
con người cảm thấy nhỏ nhoi trước sức mạnh kỳ bí của thiên nhiên nên yếu tố
thần linh ngự trị trong mọi sinh hoạt của họ.
Bước sang đầu thiên niên kỷ thứ ba, một số
dân tộc có một nền văn minh tương đối cao nhưng vẫn còn tôn thờ những vật tổ
linh thiêng của họ như dân Ấn vẫn còn thờ bò. Do đó, chúng ta không thể dựa
trên những tập tục cổ của một dân tộc mà đánh giá một cách sai lầm là xã hội đó
kém văn minh, mê tín, hoang đường. Đó là cách nhìn theo quan điểm giả tiến hoá.
Trái lại sự hiện hữu tục thờ vật tổ Totem của một số dân tộc chứng tỏ tính
phong phú đa dạng của nền văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc. Vấn đề là phải
tìm hiểu phần tinh tuý, cốt lõi của nhân vật hình tượng Mẹ Tiên như Jung nói: “sự đúc kết biết bao suy tư của thời đại tạo
dựng độc sáng phải chờ thế hệ sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý luận”. Một khi tiền nhân thần thọai hóa mẹ Âu là
Tiên thì Mẹ Âu Cơ có thể làm bất cứ điều gì mà người phàm không làm được, đó là
đẻ ra trứng thuộc phạm trù tín ngưỡng nguyên thủy cũng như phạm trù tôn giáo
đòi hỏi phải có niềm tin một cách mặc khải. Gạt sang một bên vấn đề tự tình dân
tộc để tìm hiểu xem tại sao Mẹ Âu lại đẻ ra “trứng”, chúng ta thấy rõ hàm ý sâu
xa của tổ tiên ta. Thật vậy, ý niệm trứng trong huyền thoại biểu trưng Totem
vật tổ biểu trưng của Việt tộc là tộc người thờ chim là một con vật đứng đầu
trong tứ linh: “Nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng”. Vì vậy, việc Mẹ Âu Cơ mà
vật tổ biểu trưng là chim thì việc mẹ Âu sinh ra trăm trứng nở ra trăm người
con trai trên bình diện tâm linh là bình thường không có gì đáng ngạc nhiên cả.
Điều mà chúng ta ngạc nhiên là những gì mà tiền nhân chúng ta, ngay từ thời cổ
đại đã nói tới ý niệm “Trứng” mà gần mười ngàn năm sau, với nền y học hiện đại,
chúng ta mới biết là người phụ nữ có một buồng trứng, khi trứng rụng kết hợp
với tinh trùng sẽ tạo thành bào thai.
Nguồn thư tịch cổ cũng cho ta biết “Lạc bộ
Chuy” là chi tộc Việt từ vùng Cao Nguyên Côn Sơn-Malaya tiến xuống vùng lưu vực
của 3 con sông Hoàng Hà, sông Lạc và sông Vị. Lạc bộ Chuy là chi Việt cổ của họ
Hồng Bàng có vật tổ biểu trưng là chim vì ông cha ta đã theo dấu chim Hồng,
chim Lạc thiên cư xuống vùng trung nguyên khi mực nước biển rút dần. Trước đó,
một nhánh khác tiến xuống vùng núi Dân, Ba Thục cũng được gọi là Châu Phong.
Địa danh Phong Châu ở Bắc Việt Nam cũng chỉ là nhắc lại địa danh cư trú ban đầu
của Việt tộc nơi mà mẹ Âu dẫn 50 con lên núi rồi suy cử người con trưởng làm
vua nước Văn Lang như truyền thuyết kể lại. Âu Cơ và 50 con lên đất Châu Phong,
suy phục lẫn nhau cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy
tên nước là Văn Lang, Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình Hồ,
Nam tới Hồ Tôn (Chiêm Thành).
Bản “Hùng Triều Ngọc Phả” cũng
ghi là đời Hùng Vương thứ 16 là Hùng Tạo Vương húy là Đức quân Lang (660-569
TDL) dời đô xuống Phong Châu Thượng ở Vân Nam Trung Quốc bây giờ. Sách “Lĩnh
Nam Trích Quái” truyện Thánh Tản Viên chép rằng đời Chu Noãn Vương, vua Hùng
thứ 18, lấy quốc hiệu là Văn Lang đến ở đất Việt Trì, châu Phong ở Bắc Việt Nam
bây giờ.Sự kiện này phù hợp với cương giới Văn Lang ở trung nguyên Trung Quốc
được ghi trong thư tịch cổ.
Những công trình nghiên cứu địa danh là
những từ ngữ của một tộc người đã ghi tạc vào sông núi nơi địa bàn cư trú của
họ ở một thời điểm nhất định nào đó, cho phép chúng ta kết luận là sự tương
đồng của những địa danh khẳng định địa bàn cư trú của cùng một tộc người trên
vùng đó. Trong số những địa danh thì thủy danh là tên sông, nhất là những con
sông lớn có tên sớm nhất trước cả tên đất nữa. Công trình nghiên cứu cho ta
thấy 2 con sông lớn ở Đông Á và Đông Nam Á là Dương Tử Giang và Cửu Long Giang
(Mékong) có tên gọi giống nhau và cùng bắt nguồn từ một danh từ cổ là “Kang”.
Cách phát âm này hiện được giữ lại trong các tiếng địa phương Quảng Đông và
Thượng Hải. Xét theo tự dạng thì chữ “Giang” lại dùng chữ “Công” để phiên âm.
Tên sông Mékong được gọi bằng nhiều tên theo tiếng nói của các dân tộc mà sông
này chảy qua Trung Quốc gọi là Khung Giang, Lào gọi là Nậm Khoỏng, Cambodia (Kampuchia)
gọi là Mê Kong và xuống đến lãnh thổ Việt Nam, con sông này được gọi một cách
thân thương là Cửu Long Giang. Tất cả những danh từ như Cửu Long Giang, Nậm
Khoỏng, Mékong, Khung Giang là những dạng tương tự về mặt ngữ âm từ một tên gốc
là Kông mà ra.
Về địa danh, nếu chúng ta ngược dòng thời
gian đi sâu xuống lớp địa danh Hán Việt đầy rẫy nơi vùng cư trú của người Việt
thì có thể thấy còn có một lớp địa danh cổ hơn nữa, đó là lớp tên nôm với yếu
tố cấu thành là chữ “Kẻ”. Những tên nôm với yếu tố Kẻ như thế rất nhiều, có thể
nói rằng hầu hết xã thôn Việt Nam ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, Bắc
Trung Bộ đều có. Tên nôm hiện nay đang bị quên dần đi và ít được dùng đến,
nhưng nó từng tồn tại rất lâu. Trước đây, trong một thời gian dài nó tồn tại
song song với Hán Việt, thông thường tên nôm dùng để gọi, còn tên Hán Việt là
“tên chữ”. Như chúng ta biết, tên đặt ra trước tiên dùng để gọi, đến khi xã hội
phát triển ở mức độ khá cao mới nảy sinh nhu cầu ghi chép. Hơn nữa xét tương
quan ngữ âm giữa các cặp tên nôm và tên chữ thì chúng ta thấy rõ là tên chữ
được đặt ra bằng cách phiên âm tên Nôm và trong một số trường hợp bằng cách
dịch nghĩa nữa. Điều này một lần nữa khẳng định nhu cầu ghi chép là điều kiện
xuất hiện những từ ngữ gọi là Hán Việt.
Đặc biệt trong nhiều tên làng Việt Nam,
chữ Kẻ trong những tên nôm được phiên âm ra tên Hán Việt bằng chữ Cổ những địa
danh có chữ “cổ” đứng đầu rất phổ biến. Địa danh có chữ Cổ còn thấy rải rác ở
Cam Túc, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, nhưng tập trung nhất vẫn là vùng Lưỡng
Quảng. Như vậy tên nơi cư trú có thành tố “Kẻ-Cổ” đứng đầu trong địa danh học
cần đặc biệt lưu ý khi xét vùng đất cổ của cư dân Văn Lang, nó được tìm thấy ở
một mức độ tập trung khá cao tại miền đất bao gồm miền Bắc Việt Nam và vùng
Lưỡng Quảng hiện nay. Địa bàn phổ biến địa danh có chữ “Kẻ” xưa và “Cổ” hiện
nay có thể trải rộng ra nhiều tỉnh thuộc Hoa Nam, nhưng chúng ta đều biết địa
bàn phân bổ của địa danh, càng rộng bao nhiêu thì khởi điểm của loại địa danh
đó càng cổ bấy nhiêu. Rất có thể vùng đất tập trung địa danh thuộc nước Văn
Lang như truyền thuyết cho biết.8
Tầm nguyên ngữ nghĩa của chữ “Lang” cho
chúng ta những nhận định chính xác hơn về địa bàn cư trú của người Việt cổ cũng
như uyên nguyên ngữ nghĩa của tên nước Văn Lang. Cũng như các dân tộc khác thời
cổ đại khi còn là một tộc người thì lấy chữ “người” để chỉ tên của dân tộc đó
theo ngôn ngữ của họ. Chữ Lang trong tiếng Hán có nghĩa là đàn ông, nguyên gốc
của Việt cổ còn ghi rõ trong truyền thuyết con trai vua gọi là Quan Lang và con
gái là Mị nương. Đồng bào Mường hiện nay vẫn gọi Quan Lang là người đứng đầu
một Mường (bản làng) là Quan Lang. Ngôn ngữ phương Nam còn có những chữ như
Dranglô của Barnar có nghĩa là đàn ông, Arăng tiếng Êđê và Urang của Chàm đều
có nghĩa là người. Trong tiếng Indonésia, Mã Lai chữ Orang cũng nghĩa là người.
Phương pháp so sánh của ngôn ngữ lịch sử xem những danh từ kép Văn Lang, Việt
Lang, với Urang, Ô rang, cũng xem như Dạ Lang với Drang trong chữ Dranglo là
giống nhau trên căn bản. Sự khác biệt là do biến đổi từ trạng thái nọ sang
trạng thái kia theo điều kiện không gian và thời gian mà thôi.
Căn cứ trên bản đồ nhân chủng cho thấy tộc
danh có thành tố “Lang” trải rộng khắp Trung Nguyên từ lưu vực sông Dương Tử
xuống tới Bắc Trung Việt (Việt Nam) như Dạ Lang (Quý Châu) Bạch Lang (Tứ
Xuyên), Việt Lang (Quảng Đông) và Văn Lang (Bắc Việt Nam) và những danh từ
chung chỉ người như Lang, Dranglo, Orang, trải rộng trên một địa bàn lớn ở vùng
đồng bằng ven biển, các vùng ven biển bao quanh Nam Hải tới Indonesia, Mã Lai.9
Vùng đất cư trú của các chi tộc này xét về mặt địa lý phù hợp với cương vực của
nước Văn Lang cũ như truyền thuyết kể lại. Điều này được xác nhận bởi các nguồn
sách sử cổ như “Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư” đã bị triều Thanh tịch thu thì
ở tỉnh Quảng Tây có nhiều người Lang (Lang nhân). Do đó người ta gọi thổ binh ở
vùng này là Lang binh và người Choang cách đây 4, 5 thế kỷ vẫn còn được gọi là
Lang, Choang là đọc chữ Lang trại âm mà ra. Thực tế lịch sử cho chúng ta thấy
tính hiện thực của truyền thuyết trăm trứng nở trăm con với sự hiện diện của
các nước mà cổ sử Trung Quốc gọi là Bách Việt (Bai-Yue).
Danh xưng Bách Việt trong sách “Lã Thị
Xuân Thu”, thiên “Tự Quan” viết: “Phía
Nam Dương Châu, Hán (Hán thủy) là Bách Việt”. Cao Dụ giải thích tiếp như
sau: “Bách Việt là nơi tộc Việt có cả
trăm chủng”. Sách Hậu Hán Thư, Địa lý chí dẫn lời Thần Tán về Bách Việt như
sau: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên 7,8
ngàn dặm, người Bách Việt ở xen kẽ nhau gồm nhiều chủng tính (tên họ) khác
nhau”. Sử ký của Tư Mã Thiên chép
rằng đời Chu An Vương, Sở Điệu Vương sai Bạch Khởi đánh dẹp Bách Việt ở miền
Nam vào đầu thế kỷ thứ IV TDL. Sách “Lã thị Xuân Thu” viết rằng ngay từ đầu triều Thương, cổ sử Trung Quốc đã
đề cập tới tên một số chi tộc Việt như Âu Thâm, Việt Âu, Quế Quốc, Quyên Tử,
Sản Lý, Cửu Khuẩn, Đông Việt, Âu Nhân, U Việt, Cô Muội, Thả Âu và Cung Nhân.
Đời Tống, La Tất viết “Lộ sử” đã liệt kê
một số nhóm trong Bách Việt như sau: “Việt
Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục
Thâm, Phù Xác, Cầm Nhân, Thương Ngô, Man Dương,
Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quỳ, Tây Khuẩn, Kê
Từ, Bộc Cần, Bắc Đái, Khu Ngô gọi là Bách Việt”. Theo “Dật Chu thư” thì các
chi tộc Việt ở Lĩnh Nam như Quế Quốc, Sản Lý, Quyên Tử, Cửu Khuẩn phải cống nạp
đồi mồi, hạt châu, chim quí, ngà voi, sừng tê, chim Hạc, chó lùn. Lạc Việt cống
tre ngà (đại trúc) măng trúc, Thương Ngô ở phía Nam Hồ Nam cống chim công. Tuy
nhiên, sách “Trúc thư kỷ niên” chép là mãi đến đời Chu Thành Vương, năm 1040
TDL “Vu Việt lai tân” nghĩa là Việt đến làm khách thăm xã giao mà thôi. Trong
“Dật Chu Thư”, La Tất viết chữ Lạc là Lộ, chữ Lộ chính là chữ Lạc đã được sách
Lã Thị Xuân Thu giải thích rõ ràng. Như vậy, La Tất viết Lộ sử tức sử của Lạc
Việt.10
Sách sử cổ của Trung Quốc cũng ghi là đời
Chu, có phái đoàn sứ bộ Việt Thường sang biếu chim Bạch Trĩ năm 1110 TDL đời
Chu Thành Vương năm thứ 6. Như vậy chính cổ sử Trung Quốc đã xác nhận sự hiện
hữu của Việt Thường ngay từ thời Đế Nghiêu. Việt Thường Thị của cư dân trồng
lúa nước nên đã có trình độ cao về thiên văn và đã làm ra lịch thời vụ mùa màng
cho nông nghiệp gọi là Nông lịch. Chính vì cùng một dòng tộc đại chủng Bách
Việt nên họ Việt Thường đã đến biếu vua Nghiêu một con rùa hàng ngàn năm tuổi.
Trên lưng con rùa này có viết chữ “Khoa đẩu” tức là lối chữ hình con nòng nọc
của tộc Việt dòng Thần Nông phương Nam để chỉ cách làm và ứng dụng Nông lịch là
Âm lịch còn dùng mãi đến tận bây giờ. Sau thời Đế Nghiêu Thuấn đến nhà Hạ, Nông
lịch đã ứng dụng hoàn chỉnh nên sách sử cổ thường gọi là lịch nhà Hạ. Đó chính
là Việt lịch tính theo chu kỳ của mặt trăng. Nhà bác học Lê Quý Đôn trong “Vân
Đài Lọai ngữ” đã viết: “Việt lịch tức Âm
lịch tính theo hệ thống quỹ đạo mặt trăng ứng dụng cho con nước mà bia đá ở Cối
Kê, kinh đô nước Việt thời Câu Tiễn ghi rõ là nước thủy triều lên xuống đúng
chu kỳ mặt trăng”.
Trong tác phẩm Sử Ký, sử gia chính thống
Đại Hán là Tư Mã Thiên chép về sự hình thành của quốc gia Việt Thường như sau: “Đầu đời Tây Chu (1143-770TDL) người nước
Việt Thường đuổi người Tam Miêu, lập nước ở vùng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên
Dương còn gọi là hồ Bà Dương ở phía Nam lưu vực sông Dương Tử”. Như vậy,
nước Việt Thường còn tồn tại mãi tới đời vua nước Sở là Hùng Cừ. Sử nước Sở
chép rằng đời Hùng Cừ (887-877TDL) đã chiếm Việt Thường bên hồ Phiên Dương mà
kinh đô của Việt Thường nằm ở giữa hồ Phiên Dương và hồ Động Đình.
Theo Đào Duy Anh thì trong những nhóm Bách
Việt ấy chúng ta thấy có những nhóm như Dương Việt ở hạ lưu sông Dương Tử, nhóm
Thương Ngô ở miền Nam tỉnh Quảng Tây, nhóm Sản Lý tức Xà Lý (Xa Lý) ở tận miền
Tây Nam tỉnh Vân Nam, còn Kê Từ, Bắc Đái là những tên huyện thời Hán thuộc quận
Giao Chỉ. Trong những nhóm Bách Việt được chính sử Trung Quốc như Sử Ký và Tiền
Hán Thư chép tương đối kỹ càng là: Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt, Tây Âu. “Sử ký mục “Đông Việt truyện” cho chúng ta
biết rằng Đông Việt hay Đông Âu trong thời Tần Hán đóng đô ở Vĩnh Ninh tức Vĩnh
Gia là miền Triết Giang. Mân Việt thì ở đất Mân Trung tức là miền Phúc Kiến.
Nam Việt đóng đô ở Quảng Châu gọi là thành Phiên Ngung thuộc miền Quảng Đông,
Tây Âu ở phía Nam sông Ly miền Quảng Tây. Nhóm Lạc Việt, theo Hậu Hán thư cho
chúng ta biết rằng các quận Giao Chỉ và Cửu Chân là người Lạc Việt, như thế Lạc
Việt là một chi Việt tộc tập trung nhiều nhất ở miền Bắc Việt Nam. Như vậy,
theo sử sách xưa của chính Hán tộc đã gọi Bách Việt là những nhóm người sống rải
rác khắp miền Hoa Nam, phía Tây gồm cả đất Vân Nam Tứ Xuyên và phía Nam gồm cả
Bắc và Trung Việt Nam bây giờ. Sử sách thường gọi chung miền này là miền Giang
Nam tức miền Nam Dương Tử Giang hoặc
miền Lĩnh Nam, phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh. Tuy nhiên chính sử Trung Quốc chỉ
ghi một cách sơ xài như Sử ký của Tư Mã Thiên chỉ ghi kỹ về Đông Việt, Mân
Việt, Nam Việt và Lạc Việt”.
Thư tịch cổ Trung Quốc phải thừa nhận một
thực tế lịch sử đó là sự thành lập của các quốc gia thời Xuân Thu Chiến quốc mà
họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Sử Ký của Tư Mã Thiên chép tương đối kỹ
về Đông Việt tức U Việt của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang mà lên
tới miền Giang Tô tức châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi tiếng của chi
Dương Việt. Nước Việt đóng đô ở Cối Kê với những thăng trầm dâu bể của lịch sử
nên Lý Tế Xuyên mới viết “Việt điện U linh” về nước Việt thuở xa xưa. Mân Việt
ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây,
Liêu Việt ở Quý Châu, Điền Việt, Kiềm Việt ở Vân Nam, Quỳ Việt ở Tứ Xuyên, Nam
Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là Tây Âu ở Quảng Tây và Lạc Việt ở xen kẽ
với Âu Việt rải rác khắp Hoa Nam nhưng tập trung nhiều nhất ở Quảng Tây và Bắc
Việt Nam bây giờ.
Đối chiếu với cương giới Văn Lang trong
truyền thuyết chúng ta thấy rất phù hợp với thực tế địa bàn cư trú của cộng
đồng Bách Việt, từ Hồ Động Đình xuống tận phương Nam giáp Chiêm Thành và từ
biển Đông sang tới tận Ba Thục ở phía Tây. Thế nhưng Đại Việt Sử Lược bị sử
quan triều Thanh là Tiền hi Tộ sửa đổi nên chép tên các bộ chỉ nằm trong phạm
vi Bắc Việt Nam bây giờ. Theo nhà bác học Lê Quý Đôn trong Vân Đài loại ngữ thì
“Tên 15 bộ do triều Hán, Ngô mới đặt ra,
tên gọi lẫn lộn ngờ rằng những tên đó là do bọn hậu Nho góp nhặt vay mượn chép
ra nên khó mà tin được. Xét về phận dã thiên văn thì Giao Chỉ thuộc Sao Tĩnh,
Dực Chẩn và Đẩu Ngưu”. Như vậy, nhà bác học Lê Quý Đôn đã phủ nhận cương
giới 15 bộ do sử Tàu chép và xác nhận rõ là cương giới nước ta thời cổ nằm mãi
ở Trung nguyên Trung Quốc bây giờ. Thật vậy, cương giới Hồng Bàng-Văn Lang xưa
được ghi trong “Thiên thư” là Việt Tĩnh Cương lấy chòm sao Tĩnh làm chuẩn để
phân bố các vùng, các bộ trong nước Văn Lang. Nhìn chung, chòm sao Tĩnh tượng
hình bằng 2 đường thẳng và 2 đường ngang cắt nhau tại 4 điểm chỉ vùng đất từ
Tam giang Bắc gồm sông Vị, sông Hoàng và sông Lạc xuống tới Tam giang Nam gồm
sông Nguyên, sông Tương và sông Dương Tử.
Sách Lĩnh Nam Trích Quái dựa theo truyền
thuyết dân gian Việt cổ chép: “… Trăm
người con trai đều vâng theo rồi từ biệt nhau. Âu Cơ cùng năm chục con trai ở
tại Phong Châu, suy tôn người con trưởng lên làm vua gọi là Hùng Vương, đặt tên
nước là Văn Lang. Nước ấy phía Đông giáp Nam Hải, phía Tây đến Ba Thục, phía
Bắc đến hồ Động Đình, phía Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (sau là nước Chiêm Thành).
Vua Hùng chia nước làm 15 bộ: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt
Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật
Nam, Chân Định, Quế Lâm, Tượng Quận”.11 Khác với Việt Sử Lược và
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Lĩnh Nam Trích Quái lại chép các bộ Chân Định ở Trường
Sa Hồ Nam, bộ Quế Dương, Quế Lâm ở Quảng Tây và Tượng Quận ở Quý Châu, Vân Nam
Trung Quốc rất phù hợp nguồn sách sử cổ và với thực tế lịch sử của các nước
Bách Việt ở lãnh thổ TQ bây giờ. Trong khi tất cả sách sử Trung Quốc đều viết
cương giới 15 Bộ của nước Văn Lang chỉ nằm trong phạm vi Bắc Việt Nam. Sự khác
biệt cũng không có gì khó hiểu, vì việc bóp méo, xuyên tạc và sự kiện lịch sử
được hư cấu để vấn đề gốc tích dân tộc ta trở nên huyền hoặc là bản chất cố
hữu, chủ trương trước sau như một của Hán tộc xuyên suốt dòng lịch sử. Tư Mã
Thiên là người hiểu rõ hơn ai hết Hoàng Đế là người Việt vì cũng chính ông ta
đã viết Đế Chuyên Húc, Đế Cốc đều là ông Tổ của những vị vua Việt sau này. Thế
nhưng, với tư cách là sử gia đại biểu chính thống cho Hán tộc vẫn đặt bút viết
Hoàng Đế là thủy tổ của Hán tộc. Tư Mã Thiên cũng hiểu rõ về Lạc bộ Chuy, Lạc
bộ Thủy, Lạc bộ Trãi nhưng lại viết Lạc bộ Mã vì không muốn người Việt nhớ đến
cội nguồn dân tộc và lãnh thổ Việt xưa.
Tóm lại, chính thực tế lịch sử đã minh
nhiên lý giải ý nghĩa của sự việc lạ thường là mẹ Tiên đẻ trăm trứng nở trăm
con, để rồi trở thành trăm chi tộc Việt mà sử cổ Trung Hoa gọi là Bách Việt.
Mỗi chi tộc do một người con trai đứng đầu nên từ đó mới có ý niệm bách tính là
trăm họ. Đây mới chính là vấn đề mà cốt lõi của nó là sự gửi gấm của ông cha ta
thời dựng nước cho con cháu ngàn sau, về nguồn gốc giống dòng của trăm chi tộc
Việt cùng chung huyết thống để lúc hoạn nạn nhớ cưu mang giúp đỡ lẫn nhau như
lời Bố Lạc dặn dò trước lúc chia tay. Không những cưu mang giúp đỡ lẫn nhau mà
còn phải đoàn kết, thống nhất sức mạnh Việt tộc để phục hưng đại tộc Việt.
Truyền thuyết dân gian Hoa Nam và Đài Loan
về chim Phượng Hoàng, chúa tể loài chim Totem Vật tổ Việt tộc mà dân gian gọi
là “Bái điểu tộc”, chống lại “Thiên ma tộc” Đại Hán. Đó chính là bức “Thông
điệp” của tiền nhân từ huyền thoại xuyên suốt mấy ngàn năm của dòng vận động
lịch sử Việt. Thế là Truyền thuyết huyền thoại từ chỗ u u đã trở nên minh minh,
chứ không còn u u minh minh như trước nữa. Ngày nay chúng ta không còn ngạc
nhiên khi thấy ông cha ta đã chọn loại Chim là vật biểu. Hồng là Ngỗng trời nên
còn có tên là Thiên Nga (Swan), hàm ý có chí lớn bay cao tận trời xanh. Hình
ảnh chim được khắc hoạ trên mặt trống đồng với mỏ dài của loại chim nước. Các
nhà nghiên cứu đã kết luận chim nước là của Đông Nam Á, nó gắn liền với cư dân
nông nghiệp sống ở vùng sông lạch, ao
hồ.
Theo triết gia Kim Định thì Hồng Hộc, chim
nước của Việt tộc thể hiện nguyên lý Âm Dương Giao Chỉ vì nó vừa bay lên trời,
vừa xuống dưới nước. Chi tộc Âu Việt tôn thờ chim Hồng biểu trưng của văn minh
nông nghiệp cùng với chi Lạc thờ Rồng trong cộng đồng Bách Việt nên chúng ta
vẫn tự hào là dòng giống Lạc Hồng (Lạc Âu). Trên bình diện tâm linh, hư cấu
thêm ý nghĩa thần thoại thì chim bay lên tận trời xanh thường gắn liền với các
vị Tiên nữ trên trời. Sách “Quảng Đông Tân Ngữ” ghi Trĩ là con Công của Việt
tộc luôn luôn bay theo hướng mặt trời, mà con Công chính là chim Phượng Hoàng
huyền thoại được coi như tổ các loài chim. Ý niệm Chim-Tiên-Mặt trời gắn liền
với tín ngưỡng nguyên thủy của cư dân nông nghiệp với nền văn minh lúa nước của
Việt tộc. Bên cạnh ý nghĩa tâm linh đó, chim Hồng biểu tượng một ý chí cao,
luôn bay vươn lên, vượt tới trời xanh, thể hiện ý chí cao cả của tộc Việt,
người dân Việt sẳn sàng hy sinh cho dân tộc nên xem cái chết “nhẹ như lông
Hồng”.12
CỘI NGUỒN TRĂM HỌ
Thực tế đã minh nhiên lý giải ý nghĩa của
sự việc lạ thường là mẹ Tiên sinh ra trăm trứng nở trăm con để rồi mỗi người
con đi khắp nơi phát cỏ lập ấp trở thành một trăm chi tộc Việt mà cổ sử Trung
Quốc gọi là Bách Việt. Mỗi chi tộc do một người con trai đứng đầu vâng lời bố
Lạc đến một vùng đất mới khai phá đất đai, phát cỏ mở đất để lập ấp sinh sống
và lập ra một dòng họ. Chính từ đó mới có ý niệm bách tính nghĩa là trăm họ của
Việt tộc mà trước đây, do ảnh hưởng của văn hoá Hán ta cứ nghĩ là của Hán tộc.
Đây chính là vấn đề cốt lõi ẩn chứa trong huyền thoại mà tiền nhân ta thuở dựng
nước đã gửi gấm cho thế hệ con cháu Việt Nam ngàn sau.
Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư viết: “Nhà thì có gia phả cũng như nước thì có
Quốc sử. Phải ghi lại cho tinh tường để tổ quốc ghi công. Non sông gấm vóc, đời
này qua đời khác đến. Bên văn thì hiền lương, bên võ thì lão luyện. Vị thế nước
nhà thật rực rỡ. Đầu đuôi các thế hệ được ghi chép, biên khảo để truyền về sau.
Đầu tiên chỉ chép vị tổ tối cao. Tổ quốc ta được tính từ tổ xa xưa đó, vị tổ
gốc rễ, vị tổ từ đất mẹ truyền đến chúng ta đã hàng muôn nghìn đời giống như
cây thì phải có gốc, nước thì phải có nguồn. Trước mắt chúng ta hãy tính từ “Ba
vua mở nước”. Vậy từ xa xưa, nước ta đã có các vua Hùng làm chủ nước non với
bản đồ hoa sen nở rộ, tính từ khi Kinh Dương Vương đứng đầu “Ba vua mở nước”.13
Ngày nay, các nhà nghiên cứu đều ghi nhận
rằng Việt Nam có 3 dòng họ lớn là họ Nguyễn, họ Trần và họ Lê. Trong 3 họ này,
họ Nguyễn là đông nhất vì theo các nhà nghiên cứu thì họ Nguyễn đã thiên cư dần
từ Cam Túc, Thiểm Tây xuống Hoa Nam rồi Việt Nam. Mặt khác, đời Trần vào thế kỷ
12 sau khi sắp xếp để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, Thái sư Trần
Thủ Độ lấy cớ ông tổ họ Trần tên Lý nên bắt tất cả những ai mang họ Lý phải đổi
ra họ Nguyễn. Chính vì vậy họ Nguyễn ngày càng đông hơn.
1. NHỮNG DÒNG HỌ DỰNG NÊN CÁC TRIỀU ĐẠI
TRONG LỊCH SỬ VIỆT.
Theo nhà nghiên cứu Gia phả Dã Lan Nguyễn
Đức Dụ thì Việt Nam có khoảng 140 dòng họ. Khi nghiên cứu các dòng họ ở Việt
Nam, người ta phải căn cứ vào lịch sử thiên cư của Việt tộc, bao gồm các quốc
gia Bách Việt và các triều đại trong lịch sử, các chiến công lẫy lừng của các
danh tướng, các anh hùng danh nhân văn hoá tựu chung có thể liệt kê một số dòng
họ chính nổi bật nhất như sau:
. Họ Hồng: Họ Hồng Bàng.
. Họ Lạc (Lị, Lộ, Ló ..): Họ của
bố Lạc Long Quân.
. Họ Âu (Ngu): Họ của mẹ Âu (Cơ).
. Họ Hùng: Hữu Hùng thị, được xem
như họ của các vua Hùng. Thời Hai bà Trưng cũng nhận là kế lại nghiệp Hùng nên
lấy tên nước là Hùng Lạc.
. Họ Triệu: Triệu Đà lên ngôi vua
lấy hiệu là Triệu vũ Vương thành lập quốc gia Nam Việt. Về sau có vua Bà Triệu
thị Trinh khởi nghĩa năm 248 chống quân Ngô. Triệu Quang Phục lên ngôi lấy hiệu
là Triệu Việt Vương (549-571).
. Họ Trưng: Trưng Trắc, Trưng Nhị
…
. Họ Khu: Năm 139, nhân dân Nhật
Nam dưới sự lãnh đạo của Khu Liên đánh chiếm huyện Tượng Lâm thành lập nước Lâm
Ấp. Sử Tàu chép là Lâm Ấp chính thức thành lập vào niên hiệu Sơ Bình 190-192.
. Họ Phạm: Phạm Văn, Phạm Phật
làm vua nước Lâm Ấp.
. Họ Lý: Nhà Tiền Lý từ năm 544
đến năm 602, Lý Bí lên ngôi lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập quốc gia Vạn Xuân.
Lý Phật Tử (571-673). Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi lấy hiệu là Lý Thái Tổ mở
ra triều đại nhà Lý dài 215 năm (1010-1215).
. Họ Mai: Mai Thúc Loan lên ngôi
được suy tôn là Mai Hắc Đế (722-725).
. Họ Phùng: Phùng Hưng được nhân
dân suy tôn là Bố Cái Đại Vương sau khi khởi nghĩa đánh bại quân Đường giành
quyền tự chủ cho nước nhà (783-791).
. Họ Khúc: Khúc Thừa Dụ giành
quyền tự chủ năm 906.
. Họ Dương: Dương Đình Nghệ chống
quân Nam Hán.
. Họ Ngô: Ngô Quyền đại phá quân Nam
Hán (937-965).
. Họ Đinh: Đinh Bộ Lĩnh thống
nhất nước nhà 967.
. Họ Lê: Lê Hoàn, Lê Lợi.
. Họ Trần: Trần Cảnh.
. Họ Hồ: Hồ Quý Ly, Hồ Thơm
Nguyễn Huệ.
. Họ Mạc: Mạc Đăng Dung.
. Họ Trịnh: Trịnh Kiểm.
. Họ Nguyễn: Nguyễn Hoàng.
Sau khi Mã Viện thắng Hai Bà Trưng đã tàn
sát dân ta, chúng còn bắt hàng trăm “Cừ Soái” đem sang Tàu, số những người còn
lại mang họ này phải tìm cách đổi họ thay tên nên dòng họ Trưng, họ Thi, họ
Chử, họ Hùng, họ Thục hầu như không còn nữa.
2. NHỮNG DÒNG HỌ LẬP NÊN CHIẾN CÔNG HIỂN
HÁCH TRONG LỊCH SỬ:
. Họ Chu: Năm 158, Chu Đạt lãnh
đạo nhân dân Cửu Chân nổi lên đánh chiếm Nhật Nam. Năm 163, Chu Cái cùng với Hồ
Lan lãnh đạo nhân dân nổi lên đánh chiếm huyện Quế Dương, Thương Ngô.
. Họ Bốc, họ Hồ, họ Phan: Từ
160-180, nhân dân Thương Ngô dưới sự lãnh đạo của Bốc Dương, Phan Hồng, Lý
Nghiêu, Hồ Lan, Chu Cái nổi lên đánh chiếm Thương Ngô.
. Họ Lương: Tháng giêng năm 178,
anh hùng dân tộc Lương Long lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân các quận
Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam nổi lên đánh chiếm quận huyện, làm chủ
đất nước được 4 năm.
. Họ Ninh: Ninh Trường Châu nổi
lên chiếm Uất Lâm và Thủy An Quảng Tây bây giờ.
. Họ Lý: Lý Trường Xuân và Lý Tự
Tiên khởi nghĩa chống giặc Đường.
. Họ Dương: Năm 806, Dương Thanh
nổi dậy giết Lý Tượng Cổ và hơn 1 ngàn quân Đường.
Ngoài những dòng họ Việt ở Việt Nam bây
giờ, chúng ta còn phải kể tới những dòng họ Việt cổ ở Hoa Nam mà sử sách Trung
Quốc gọi là Bách Việt. Từ trước đến nay, các sử gia Việt Nam do thiếu tài liệu
như sử gia Trần Trọng Kim trong tác phẩm “Việt Nam Sử lược” viết về dòng dõi Lý
Nam Đế như sau: “Lý Bôn có người gọi là
Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu, tổ tiên đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang
Giao Châu, đến lúc bấy giờ đã là 7 đời, thành ra người bản xứ …” hoặc “Nguyên họ Hồ là dòng dòng dõi nhà Ngu bên
Tàu nên đặt quốc hiệu là “Đại Ngu”.
Đặc biệt là các nhà sử học Mác Lê viết sử
theo nghị quyết của đảng CSVN nên viết rằng nước ta chỉ nằm trong phạm vi Bắc
và Trung VN hiện nay và cũng chép rằng Lê Quý Ly, cháu 4 đời của Hồ Liêm, dòng
dõi Hồ Hưng Dật người Triết Giang bên Tàu.
Gần đây, Lê Trung Hoa trong “Họ và tên người Việt Nam” vẫn viết theo
sách sử cũ: “Phần lớn các họ của người
Kinh có nguồn gốc từ Trung Quốc như Trần, Lê, Lý, Đỗ … Trong hàng nghìn năm Bắc
thuộc và tiếp tục sau đó, nhiều quan lại và thường dân Trung Quốc đã sang định
cư ở nước ta, rồi sinh con đẻ cháu, dần dần trở thành người Việt. Xin nêu ra
một vài dẫn chứng như Trần Lãm, cha nuôi của Đinh Bộ Lĩnh, vốn là con ông Trần
Công Đức, quán ở Trấn Quảng Đông, từ Trung Hoa sang hùng cứ ở Bố Hải Khẩu, nay
là xã Kỳ Bố, huyện Vũ Tiên, phũ Kiến Xương tỉnh Nam Định, mà tự xưng là Trần
Minh Công. Ngay cả họ Nguyễn, một họ lớn
nhất của người Việt chiếm 38% thì Lê Trung Hoa cũng cho có nguồn gốc Trung Hoa
vì: “Đời Tấn, bên Trung Quốc có Nguyễn Tịch nổi danh với điển tích Mắt xanh.
Đồng thời với Nguyễn Tịch có Nguyễn Hàm, một nhà thơ nổi tiếng!!!”. Thực
ra, tất cả đều là họ của người “Trung Quốc gốc Việt cổ” ở Hoa Nam bây giờ thuộc
lãnh thổ Trung Quốc. Ông Tổ nhà Lý là chi Hmong-Mien của Bách Việt, nhà Trần,
nhà Hồ, Nhà Tây Sơn …đều là người Mân Việt ở Phúc Kiến, Triết Giang nên đều là
người Việt trong đại chủng Bách Việt của chúng ta.
3. NHỮNG HỌ VIỆT CỔ Ở ĐÔNG VÀ NAM TRUNG
QUỐC
Ngày nay sự thật lịch sử đã được phục hồi
sau hàng ngàn năm bị che phủ bởi lý của kẻ mạnh. Sự thật lịch sử đã xác nhận là
lãnh thổ của nước Xích Quy rồi Văn Lang của Việt tộc thời xưa còn ở lưu vực 2
con sông Hoàng Hà Dương Tử của Trung Quốc bây giờ. Suốt dòng lịch sử Việt,
người Việt cổ đã phải thiên cư rời bỏ địa bàn sinh tụ trước kẻ thù Hán tộc xâm
lăng phương Bắc chạy xuống phương Nam. Số còn lại trải qua hàng ngàn năm thống
trị của Hán tộc với chủ trương đồng hoá, buộc họ phải theo phong tục tập quán
Hán. Thế nhưng, trải qua hàng ngàn năm bị nô dịch nhưng họ vẫn giữ bản sắc Việt
nên tuy sinh hoạt giống như người Hán nhưng không bao giờ hoá thành người Hán
được. Chính vì vậy, tuy cùng gọi là người Trung Quốc nhưng người Nam TQ và
người Bắc TQ khác nhau hoàn toàn từ con người đến đời sống văn hoá, phong tục
tập quán. Người Miền Nam Trung Quốc vẫn gọi nhau bằng họ như ông Trần, ông Lý…
chứ không gọi bằng tên chính để nhận biết, trân trọng cội nguồn Việt cổ của tổ
tiên họ. Như vậy, người dân ở miền Nam TQ hiện nay là người Trung Quốc gốc Việt
cổ nên họ của dân Hoa Đông, Hoa Nam chính là họ Việt như họ Lý, Lưu, Trương,
Mai, Lâm, Trịnh ... Ngay từ thời Chu khi Hồ Công lấy công chúa Chu, vua Chu cắt
đất Trần phong cho Hồ Công. Hồ Công lấy đất phong lập ra triều Trần của dòng họ
Trần ở lưu vực phía Đông sông Dương Tử. Sử sách Việt ghi tổ tiên của Lê Quý Ly
và Nguyễn Huệ tên thật là Hồ Thơm vốn họ Hồ ở đất Trần là người Việt cổ. Hồ Quý
Ly đặt tên nước là “Đại Ngu” hàm nghĩa là dòng dõi vua Thuấn họ Ngu. Hồ Quý Ly
nuôi tham vọng mở ra triều đại thanh bình thịnh trị như thời Đường Ngu tức
Nghiêu Thuấn thuở xưa nên mới đặt tên nước là Đại Ngu. Theo các nhà nghiên cứu
thì Ngu về sau trại âm ra là Âu, Ngu Cơ=> (Ou Cơ) => Âu Cơ. Chữ Cơ có
nghĩa là người con gái xinh đẹp nên truyền thuyết Rồng Tiên với mẹ Âu Cơ nghĩa là mẹ Âu xinh
đẹp như tiên.
Trong suốt trường kỳ lịch sử, Bách Việt ở
Nam Trung Quốc luôn vùng lên giành lại đất Tổ Trung Nguyên mỗi khi Hán tộc suy
yếu. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, các quốc gia Bách Việt của con Rồng cháu Tiên
như Việt, Ngô rồi Sở nhiều lần đánh thắng các nước lên ngôi Bá chủ Trung
nguyên. Thế nhưng do ở rải rác khắp trung nguyên, giới lãnh đạo vì quyền lợi cá
nhân dòng họ đã gây chiến tranh chém giết lẫn nhau để rồi cuối cùng bị đế quốc
Tần tiêu diệt. Khi triều Tần xụp đổ, Hạng Võ người Sở Việt cùng Lưu Bang người
Hán quyết chiến một mất một còn giành quyền làm chủ Trung nguyên. Hạng Võ ỷ tài
“Lực bạt sơn hề khí cái thế”, anh hùng khí đoản nên kiêu căng không nghe lời
của quân sư Phạm Tăng nên bị Lưu Bang vây khốn phải tự sát. Thế là chấm dứt
thời kỳ “Hán Sở Tranh Hùng” nên Trung nguyên lại về tay Hán tộc để lại bao
thương tiếc cho người dân Sở Việt ở Hoa Nam.
Trước một kẻ thù Hán tộc phương Bắc vốn là
một tộc người du mục đời sống vật chất, thiên về lý trí nên tình cảm lạnh lùng
đến mức khô cằn. Cuộc sống du mục buộc phải có tổ chức, đoàn kết, sức mạnh võ
biền, rất thạo việc chiến tranh. Trong khi các nước Bách Việt ở phương Nam định
cư rải rác khắp Trung nguyên là cư dân nông nghiệp đời sống thiên về tình cảm,
thịnh về văn hoá nhưng kém về võ lực nên Hán tộc thắng một cách dễ dàng. Mặt
khác, các quốc gia Bách Việt ở tản mạn khắp Trung nguyên nên vì quyền lợi quốc
gia, xem nhẹ tình đồng chủng nên không biết đoàn kết để thống nhất sức mạnh mà thường
đánh lẫn nhau để giành ngôi vị thủ lĩnh. Thời Xuân Thu Chiến Quốc với sự hưng
thịnh của Ngô, Việt, Sở vùng lên làm bá chủ Trung Quốc một thời gian, sau đó
Ngô lại đánh Việt, Việt diệt Ngô rồi Sở diệt Việt để rồi cuối cùng lại bị Hán
tộc thống trị như cũ. Cuối đời Đường, tình hình Trung Quốc tam phân ngũ liệt
nên sử sách gọi thời kỳ này là thời Ngũ đại Thập quốc. Ở miền Bắc gồm 5 triều
đại nối tiếp là: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu được xem là
chính thống của Trung Quốc. Trong khi đó ở miền Nam, cư dân Hoa Nam gốc Việt
nổi lên giành độc lập và thành lập 10 nước Bách Việt gồm:
- Nước Ngô do Dương Hành Mật lập
ra ở An Huy.
- Nước Thục do Vương Kiến thành
lập ở Tứ Xuyên.
- Ngô Việt do Tiền Cù thành lập ở
Triết Giang.
- Sở do Mã Ân lập ra ở Hồ
Nam.
- Mân do Vương Thẩm thành lập ở
Phúc Kiến của Mân Việt.
- Nam Hán do Lưu Ẩn thành lập ở
Quảng Đông. Thực ra tên nước lúc ban đầu lấy tên rặng núi Ngũ Lĩnh ở Hoa Nam là
Đại Việt đặt tên nước, rồi về sau đổi là Nam Hán vì ở phía Nam sông Hán.
- Nam Bình do Cao Bảo Dung thành
lập ở Hồ Bắc.
- Hậu Thục do Mạnh Trí thành lập
ở Tứ Xuyên.
- Nam Đường do Lý Thắng thành lập
ở Giang Tô.
- Bắc Hán do Lưu Sùng thành lập ở
vùng Sơn Tây phía Bắc sông Hán.
Thực tế này được nhà Trung Hoa học, học
giả H. Wiens nhận xét một thực trạng đau lòng là “Bao nhiêu cuộc trổi dậy của Bách Việt đều thất bại vì người Lĩnh Nam
tự phá lẫn nhau…”. Lịch sử đã chứng minh khi các chi Việt thuộc các nước
Ngô, Việt, Sở bỏ Hoa Nam chạy xuống Bắc và Trung Việt Nam hợp nhất với Lạc Việt
và các chi Việt khác định cư tại đây từ trước tạo nên một sức mạnh tổng lực nên
đã đánh thắng bao cuộc xâm lược của Hán tộc để tồn tại mãi tới ngày nay. Từ
huyền thoại đến hiện thực lịch sử đã minh nhiên xác định Việt tộc bao gồm rất
nhiều chi tộc như Lạc Việt, Âu Việt, Mân Việt, Dương Việt, Đông Việt, Liêu
Việt, Quì Việt, Điền Việt, Kiềm Việt, La Việt... Sử gia chính thống TQ Tư Mã
Thiên trong bộ Sử Ký đã viết: “Nước Sở,
nước Việt đều là dân Việt. Dân nước Sở họ Mị, dân nước Việt họ Tự (Từ)”.
Nhà nghiên cứu Tscheppe ghi nhận Phù Sai, Hạp Lư, Câu Tiễn đều là họ Việt.
Người Mường là người Việt cổ sơ còn giữ được một vài họ cổ là họ Ai, họ Kem, họ
Khói, họ Sa, họ Xạ. Hiện nay đồng bào Mường còn giữ một số họ như Bạch, Bùi,
Cao, Đinh, Hà, Hoàng, Lê, Phạm, Quách, Trịnh Xa trong đó Đinh, Quách, Bạch,
Hoàng là nhiều nhất. Cổ sử Trung Quốc cho biết Hoàng Đế Li Vưu, cổ thiên tử là
thủ lĩnh của Tam Miêu chính là đồng bào Hmong Mien gồm đồng bào Dao và Miêu
(Mèo) trước đây một thời làm chủ Trung nguyên. Tất cả đồng bào thiểư số đều là
những chi tộc Việt, là anh em cùng chung một bào thai của mẹ Âu nên chúng ta
vẫn gọi nhau một cách thân thương là đồng bào, là bà con cô bác, chú dì, anh
chị…
TÌNH ĐỒNG BÀO RUỘT THỊT,
Ý NGHĨA NHÂN VĂN CAO
ĐẸP CỦA VIỆT NAM
Truyền thống lịch sử năm ngàn năm văn hiến
còn cho chúng ta một ý nghĩa cao đẹp tràn đầy vẻ nhân văn của huyền thoại Việt
Nam mà không một dân tộc nào có được. Thật vậy, từ hình tượng Mẹ Tiên đẻ ra một
bọc trăm trứng rồi đem ra để ở ngoài đồng để mẹ đất ấp ủ, bảy ngày sau nở ra
trăm người con trai, người nào cũng khôi ngô tuấn tú đã cho chúng ta niềm tự
hào con Rồng cháu Tiên. Chúng ta có chung cội nguồn huyết thống thiêng liêng,
truyền lưu cho chúng ta nên chúng ta đều “bình đẳng” như nhau. Chúng ta cùng
chung một bào thai của Mẹ Âu Cơ, người Mẹ Tổ quốc Việt Nam sinh thành dưỡng dục
nên chúng ta có quyền gọi những anh em là đồng bào ruột thịt mà các dân tộc
khác không thể gọi được như thế.
Hai chữ đồng bào mà chúng ta vẫn gọi một
cách thân thương trìu mến “Bọc điều trăm họ thai chung, Đồng bào tiếng gọi vô
cùng Việt Nam...”. Dân gian Việt thường gắn liền “yêu nước với thương nòi”,
“tình đồng bào với nghĩa ruột thịt” đặc trưng của nòi giống Việt. Chính từ ý
nghĩa đồng bào nên trong cuộc sống thường nhật, việc ứng xử thể hiện qua cách
xưng hô với người không phải trong gia tộc rất là thân tình chẳng khác gì bà
con họ hàng cả. Đối với tha nhân, người Việt chúng ta cũng gọi là bà con cô
bác, cũng xưng hô là ông bà, cô bác, chú thím, cậu mợ, anh chị em, là điều mà
không thấy ở bất cứ một dân tộc khác ngoài Việt Nam. Đồng bào còn biểu trưng
một ý niệm bình đẳng như nhau, giữa những con dân Việt không có gì khác biệt về
đẳng cấp, quyền lợi.
Huyền thoại Rồng Tiên thể hiện một ý chí
độc lập tự cường lấy sức mình là chính, không dựa vào thần linh cũng như tha
nhân. Huyền tích Việt kể rằng mẹ Âu đem bỏ cái bọc ra ngoài đồng, biểu trưng
cho nền văn hoá nông nghiệp nên dân gian ngày xưa, khi đẻ xong lót lá chuối cho
con nằm dưới đất hàm nghĩa trong vòng tay của mẹ đất. Mặt khác nó cũng thể hiện
ý niệm nhân chủ, lấy con người làm chính, dựa trên ý chí tự chủ, tự lực tự
cường. Huyền thoại Rồng Tiên kể rằng sau 7 ngày trăm trứng nở ra trăm con trai,
không cần phép màu của bất cứ thần linh nào đã thể hiện cao độ tâm linh Việt,
sức sống Việt. Từ đó, chúng ta phải biết lấy sức mình là chính để đứng vững
trên đôi chân của mình không dựa vào Thần linh, một sức mạnh bên ngoài như các
dân tộc khác. Từ ý niệm đồng bào cùng chung một Mẹ, một nguồn cội huyết thống
đã hình thành một ý thức dân tộc cao độ với lòng yêu nước gắn liền với tình
thương nòi giống.
Hai ý niệm yêu nước thương nòi hoà quyện
làm một, xuất phát từ lòng tự hào “Con Rồng cháu Tiên” đã tạo nên những kỳ tích
oai hùng, đẹp như áng sử thi của thiên trường ca bất hủ Việt Nam. Hai chữ “Đồng
bào”của Việt tộc còn biểu trưng một cộng đồng Bách Việt luôn đặt quyền lợi
chung lên trên quyền lợi cá nhân, việc nước trước việc nhà, danh dự gia đình
dòng họ trên lợi ích cá nhân hẹp hòi vị kỷ. Tuy vậy, truyền thống Việt cổ vẫn
lấy con người làm gốc “Nhân bản”, tôn trọng cá nhân cũng như sự bình quyền nam
nữ, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Trong khi Tây phương coi trọng tự do
cá nhân thái quá không đếm xỉa gì tới tha nhân, tới lợi ích cộng đồng của nhân
quần xã hội. Đó chính là ý nghĩa của đạo đức Việt cổ mà giới học giả Tây phương
đều phải hết lời ca ngợi cái gọi là “Giá trị Phương Đông”, tinh hoa của nền văn
minh đạo đức Việt Nam.
HUYỀN THOẠI RỒNG TIÊN,
BƯỚC TIẾN HOÁ CỦA NHÂN LOẠI
Truyền thuyết về họ Hồng Bàng, tự thân chữ
họ đã gói ghém tinh thần gia tộc trong dòng họ của một thị tộc. Nhiều thị tộc
tiến tới một bộ tộc, rồi ý niệm dân tộc hình thành theo quy luật sinh thành,
tiến hoá chung của nhân loại. Xã hội loài người thuở ban sơ với đời sống hoang
dã, bản tánh hồn nhiên sống theo tục quần hôn của chế độ mẫu hệ kéo dài hàng
ngàn năm. Theo thời gian với sự tiến hóa của nhân loại, ý niệm độc hữu đã hình
thành gia đình, đáp ứng yêu cầu sinh hoạt của đời sống xã hội ở một thời điểm
nhất định nào đó. Thế nhưng, khởi nguyên từ hình tượng nguyên sơ của Mẹ Tiên
“đẻ trăm trứng nở trăm con”, nguyên lý Mẹ tiềm ẩn trong dòng máu Việt cái Gene
“Tiên” ngay cả khi đã chuyển sang hình thái phụ hệ. Thật vậy, nguyên lý Mẹ thể
hiện rõ nét trong sinh hoạt văn hoá, xã hội mang tính truyền thống của dân tộc
từ thuở xa xưa. Thời đó, trong các cuộc tế lễ hội hè đình đám, vai trò chủ tế
thuộc phụ nữ chứ không do các thầy tư tế như hầu hết các dân tộc khác chịu ảnh
hưởng của thần quyền. Thời kỳ này hình thành một nền văn minh vu thuật nên dân
gian vẫn thường gọi là bà Vu Ông Hích. Về sau nam giới mới được tham dự đồng tế
thì ta gọi là ông đồng bà bóng hay bà cốt.
Thời xưa, trống đồng không chỉ là một nhạc
cụ mà nó còn biểu hiện uy lực của một hiệu lệnh mà người đánh trống bao giờ
cũng là nữ giới. Tùy thư chép: “Người
đánh khai mạc chiếc trống mới đúc bao giờ cũng là người con gái”. Ngay tên
con sông nơi mà những chi Việt tộc đã theo triền sông xuôi Nam đã gọi tên một
cách thân thương là dòng sông Mẹ, là sông cái. Trong đời sống, nguyên lý Mẹ vẫn
ngự trị như một nguồn suối tâm linh làm dịu mát tâm hồn, xoa dịu những nỗi đau
trần thế. Thật vậy, không một dân tộc nào mà có nhiều Thần nữ tâm linh như Việt
tộc từ hình tượng Mẹ Tiên đến Cửu Thiên Huyền Nữ, Thái Dương Thần Nữ, Mẫu
thượng ngàn (Mẹ Long Nữ ở trên miền núi) Bà Chúa Xứ, Mẫu Thoải (mẹ nước)… Nhiều
làng trong tỉnh Hà Bắc đều có ghi trong Thần phả được dân gian truyền tụng
truyện kể về một Thần nữ là con gái Mẹ Âu Cơ. Đây là cả một hệ thống Nữ thần
như các bà chúa Dâu dạy dân trồng dâu nuôi tằm, bà Chăm Chỉ của làng Đại Trạch
dạy dân se tơ chỉ... Dân gian vẫn tổ chức lễ hội hàng năm trong đó có lễ rước
nước, đưa kiệu xuống thuyền.
Theo truyền thuyết thì Mẹ Âu Cơ sinh ra
trăm trứng nở ra một trăm con trai để rồi Bố Lạc dẫn 50 con xuống miền sông
nước, Mẹ Âu dẫn 50 con lên núi chia nhau mà trị. Một trăm người con trai mỗi
người định cư một nơi, xâm mình, cắt tóc, phát cỏ, lập ấp phát triển thị tộc
rồi mở mang đất nước phát triển giống nòi. Những chi tộc Việt như U Việt, Mân
Việt Dương Việt và Lạc Việt đã thành lập các quốc gia Bạch Lang, Dạ Lang, Việt
Lang, Văn Lang. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ. Việc
chuyển sang chế độ phụ hệ đã chấm dứt tục quần hôn và loạn luân được xem như
bước ngoặt tiến hóa của nhân loại. Ý nghĩa của mẩu truyền thuyết này xem như
một mốc tiến hoá quan trọng trong lịch sử nhân loại ở thời điểm khá sớm. Trong
khi đó ở Trung Quốc thời Thương còn duy trì mẫu hệ mãi đến thời Tần Thủy Hoàng
vẫn còn nên đã phải áp dụng những luật lệ khắt khe để chấm dứt chế độ mẫu hệ
còn rơi rớt ở Trung Quốc. Xã hội Việt
Nam thời Hùng Vương dù đã chuyển dần sang chế độ phụ hệ, nhưng ý nghĩa và vai
trò của người Mẹ vẫn được trân trọng bảo lưu mãi cho tới ngày nay. Sách Nam
Phương thảo mộc trạng của Kế Hàm thời Tấn ở thế kỷ thứ 3 còn ghi về truyền
thống tôn trọng nữ giới của Việt tộc như sau: “Người Việt có tục Nữ tửu tức là Rượu con gái. Đúng vào ngày sinh con
gái người nhà nấu rượu để vào hủ sành gắn nắp lại rồi đem ra chôn ở bờ ao. Đến
khi người con gái lớn lên, đi lấy chồng thì trong ngày cưới, người nhà đào rượu
ấy lên uống trong tiệc cưới”. Ngày nay tập tục đó không còn nữa nhưng cha
mẹ yêu quý con gái vẫn thường âu yếm gọi con mình là con gái “rượu”, chính là
phản ảnh tập tục truyền thống xa xưa của dân tộc. Cách đây không lâu, tuy tập
tục ở rể còn rơi rớt ở một vài địa phương nhưng phần lớn các trường hợp do gia
đình bên nhà trai gặp khó khăn hoặc gia đình bên gái chỉ có một cô gái rượu nên
bắt ở rể được sống gần con gái. Việc tôn trọng nữ quyền của truyền thống Việt
Nam khởi đi từ hình tượng Mẹ Tiên Âu Cơ, người Mẹ sinh thành của Tổ Quốc Việt
Nam xuyên suốt dòng vận động của lịch sử. Sự bình đẳng nam nữ đã thể hiện ngay
từ thời Hùng Vương, khác hẳn với Hán tộc, một tộc người vẫn tự cho là văn minh,
lên mặt giáo hoá dân tộc khác, nhưng vẫn duy trì hủ tục mang tính quan liêu gia
trưởng trọng nam, khinh nữ. Quan niệm coi thường giá trị của phụ nữ không được
ra khỏi nhà, phục vụ chồng của Hán tộc mới du nhập vào nước ta từ thời Hán
thuộc, một thời được các hủ nho rập khuôn nào là nữ nhi ngoại tộc (con gái là
con người ta) nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô (chỉ một trai cũng là có, mười
gái cũng như không). Thế nhưng, dù bị
ngàn năm đô hộ của Tàu, văn hoá Việt với sức sống vô biên của một dân tộc đã
đẩy lùi âm mưu nô dịch văn hoá của Hán tộc. Thật vậy, tuy phụ nữ không còn giữ
vai trò quyết định như trong chế độ mẫu hệ nhưng họ vẫn được tôn trọng, thiên
chức làm mẹ, làm vợ, vẫn được xã hội đề cao. Tuy không còn là gia trưởng nhưng
giới phụ nữ vẫn được coi là nội tướng, người giữ tiền bạc của gia đình. Quan hệ
vợ chồng không bất bình đẳng như xã hội Trung Quốc, đồng thời nó cũng không
bình đẳng thái quá kiểu Tây phương để đi đến chỗ dễ đổ vỡ, ly dị, hậu quả là
con cái thiệt thòi, gia đình ly tán. Gia đình là nền tảng của xã hội, nên mối
tương quan vợ chồng Việt Nam dựa trên sự đồng thuận của cả vợ lẫn chồng “Thuận
vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Đời sống vợ chồng không chỉ là hạnh phúc
lứa đôi mà còn là tổ ấm nuôi dưỡng giáo dục con cái. Tình nghĩa vợ chồng Việt
Nam đầm ấm thân thương, xem người phối ngẫu của mình là nơi trú ngụ che chở cho
họ nên vợ hay chồng vẫn dùng chung chữ “nhà tôi” để chỉ chồng hay vợ. Tình yêu
thương chồng vợ còn thể hiện qua cách xưng hô thân mật, xem người yêu như chính
bản thân mình nên thường gọi nhau là “Mình, Mình ơi!”. Về sau vai trò phái nam
được coi trọng hơn vì truyền thống thừa tự, hương hoả để thờ cúng tổ tiên, ông
bà cha mẹ nên “chồng nói vợ nghe” nhưng nếu trong các dịp lễ Tết, Giỗ chạp nếu
không có mặt người vợ thì xem như chưa đủ lễ nghĩa của đạo vợ chồng. Tương lai
của các con mới chính là hạnh phúc của cha mẹ, nên người phụ nữ Việt Nam sẵn
sàng hy sinh tất cả cho chồng con, nhưng không vì thế mà bị xem thường. Trái
lại hình ảnh người mẹ sống mãi trong tâm tư của con cái, cho dù đứa con đã lập
gia đình riêng. Từ lúc đó, con cái dù đã lập gia đình nhưng vẫn phải sớm hôm
phụng dưỡng cha mẹ già từ miếng ăn, giấc ngủ, thuốc men những khi đau ốm. Đây là đạo lý làm người của người Việt Nam
khác hẳn với xã hội phương Tây trong đó, quyền tự do cá nhân đề cao thái quá.
Chính vì vậy, con cái lớn lên lập gia đình riêng thường lơ là, thiếu sót bổn
phận làm con, thậm chí gửi cha mẹ già vào viện dưỡng lão, sống cô đơn trong
tuổi già buồn bã. Phụ nữ Việt thường nhịn nhục chiều chồng chiều con, chịu
thiệt thòi về phần mình để lo cho chồng cho con nhưng bù lại cho đến cuối đời
lúc nào cũng sống trong hạnh phúc với chồng bên đàn con cháu thương yêu ruột
thịt. Khởi nguyên từ hình tượng Mẹ Tiên
cao cả đã tiềm ẩn “Nguyên lý Mẹ” trong tâm thức mỗi người Việt để truyền lưu
mãi tới ngày nay. Chính truyền thống cao đẹp này của dân tộc đã sản sinh ra
những bậc nữ lưu vĩ đại như Hai Bà Trưng, Bà Triệu và bao nhiêu nữ anh hùng
nữa, những bậc anh thư của Việt tộc đã góp phần to lớn trong công cuộc bảo vệ
đất nước mà không một dân tộc nào có được.
SỬ THI BỐ LẠC-MẸ ÂU,
UYÊN NGUYÊN NỀN MINH TRIẾT VIỆT NAM.
Mỗi dân tộc đều có một vật tổ biểu trưng,
trong khi Việt tộc lại có hai vật tổ song trùng đó là Tiên Rồng. Ngay từ thời
đá mài Bắc Sơn cách nay khoảng 7000 năm người ta đã tìm được những hòn sỏi mài
nhẵn có gạch 2 vạch song song mà theo các nhà nghiên cứu thì đó là nét song
trùng, hay là nét lưỡng hợp. Đặc điểm của huyền thoại Việt Nam là luôn luôn có
những danh từ kép như sông núi, đất nước, nóng lạnh, sáng tối, trong ngoài, âm
dương, nước nhà, nhà nước biểu trưng lưỡng thể tính âm dương đối lập trong sự
thống nhất hài hoà. Ngày nay mọi người
đều nhận chân được ý nghĩa và giá trị của truyền thuyết là những trang chiếu
giải trung thực nhất của người xưa.
Vấn đề là chúng ta, thế hệ con cháu phải
tìm về nguồn cội xa xưa để lý giải ngữ nghĩa hàm ẩn trong chiều sâu ý niệm tâm
linh của dòng sống sinh động Việt cổ. Đó chính là quan niệm sử theo chiều dọc
mà chúng ta gọi là huyền sử. Truyện xưa kể rằng mối tình Rồng Tiên của đôi vợ
chồng nhân thần để rồi ba sinh hương lửa mặn nồng đã sinh ra bọc điều trăm
trứng, nở ra trăm con trai khôi ngô tuấn tú lạ thường. Bố Rồng dẫn 50 con về
Thủy Phủ để Mẹ Tiên ở lại với 50 con trên vùng cao.14 Mẹ con tính
trở về quê ngoại nhưng chiến tranh loạn lạc nên không về được. Mẹ con lẻ loi
đơn chiếc chỉ biết ôm nhau khóc lóc kêu gào mong bố trở về: “ Bố ơi! Bố ở đâu mau về cứu chúng con …”.
Rồi một hôm, Bố Rồng bỗng nhiên về gặp Mẹ Tiên ở bến nước sông Tương để tạ từ
ly biệt.
Tự thân của mẩu truyền thuyết này là uyên
nguyên triết lý của sự tương sinh tương khắc, tan hợp hợp tan, quy luật muôn
đời thường hằng bất biến của vạn vật muôn loài. Bến nước sông Tương ngàn trùng
xa cách từ buổi ấy, đầy ắp những giọt nước mắt chia ly đã là hồn thơ muôn thuở
của thi nhân:
Bố về gặp Mẹ bến sông Tương Giọt lệ sầu đong nghĩa vợ chồng Ngàn
năm tự thuở chia ly ấy.
Huyền sử Rồng Tiên giống Lạc Hồng…
Giọt lệ sầu đong của Mẹ đã khiến bố Lạc
ngậm ngùi tha thiết giãi bầy: “Ta là
giống Rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống Tiên sống ở trên đất, vốn không ở
được với nhau lâu. Tuy nhiên âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng dòng giống
tương khắc như nước với lửa khó bề ở lâu với nhau được. Nay phải chia ly. Ta
mang 50 con về Thủy Phủ chia trị các nơi, còn nàng đem 50 con về ở trên đất
chia nước mà trị. Những lúc lên non xuống biển có việc cùng nhau gắn bó với
nhau đừng bỏ rơi nhau”. Mẹ Âu dẫn 50 con lên núi, suy tôn người con trưởng
lên làm vua đặt tên nước là Văn Lang. Còn mối tình nào trên thế gian này cao
đẹp tuyệt vời như thiên tình sử Tiên Rồng, tuy huyền nhưng không ảo, tuy mơ
nhưng lại thực và sự hiện hữu của cộng đồng Bách Việt là một hiện thực lịch sử
của huyền sử Tiên Rồng:
Việt Nam thi sử truyền ghi, Âu Cơ Tiên
nữ kết nghì Lạc Long, Công Chúa
Viêm Đế vốn dòng,
Theo cha du ngoạn non bồng Nam phương, Động Đình kết mối uyên
ương,
Thuyền quyên lòng đã mười thương anh hùng! Sắt cầm hoà hiệp nguyện
chung,
Trăm năm kết nghĩa vô cùng nên thơ, Ba sinh
hương lửa đợi chờ,
Mặn nồng tình nghĩa ngây thơ thẹn thùng, Bọc điều trăm họ
thai chung,
Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam
Thân
thương cao cả vô vàn,
Hồn thiêng sông núi mang mang lòng người, Truyền kỳ lịch sử bao
đời Cội nguồn dân tộc tuyệt vời Rồng
Tiên ..!
Truyền thuyết Rồng Tiên là một triết lý văn
hoá tuyệt vời. Hình tượng Bố Rồng, Mẹ Tiên là hình tượng nguyên sơ, uyên nguyên
nguồn cội của triết lý Âm Dương, biểu tượng bởi đôi vợ chồng nhân thần Bố
Lạc-Mẹ Âu. Bố Rồng-Mẹ Tiên là những anh hùng khai sáng văn hoá không những của
dân tộc Việt mà còn là của cả nhân loại nói chung. Mẹ Tiên, người Mẹ Âu Cơ của
dân tộc dạy con cái làm rẫy, trồng khoai, trồng lúa ven núi, trồng mía ven
sông, đào giếng, dệt vải, ép mật, thổi xôi, làm bánh. Đó là người Mẹ của giống
dòng Bách Việt, người Mẹ của Tổ Quốc Việt Nam hôm nay và mãi mãi về sau. Bố Rồng diệt quái vật, Ngư tinh, mộc tinh, hồ
tinh để giúp dân yên ổn làm ăn sinh sống. Bố Rồng còn dạy con dân cách thức xâm
mình, vẽ mình để khỏi bị thủy quái làm hại. Bố là hình ảnh tượng trưng cho ý
chí sức mạnh truyền thống của Việt tộc, còn mẹ là hình ảnh biểu trưng của tình
cảm nhân ái hiền hoà của dân tộc như một biểu tượng nòi giống Rồng Tiên:
Sữa Mẹ Âu tuôn dòng nhân nghĩa, Máu Bố Lạc hừng chí
hùng anh”.
Từ ý niệm Đất Nước, Núi sông đến Cha Trời,
Mẹ Đất thể hiện triết lý sống trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là biểu tượng tín ngưỡng tự nhiên nguyên thủy của nền văn
minh nông nghiệp thời cổ đại. Mặt trời, ánh sáng cần thiết cho sự sống ban
ngày. Ngôi sao, mặt trăng ban đêm, là giấc ngủ không thể thiếu được trong đời
sống con người. Đất là Mẹ ấp ủ dưỡng nuôi để hạt giống nảy mầm khai sinh sự
sống. Nước mưa của cha từ trên trời rơi xuống lòng đất mẹ cùng với ánh nắng mặt
trời, ánh sáng của tình yêu thương, đã tạo ra muôn vật muôn loài, sinh sôi nẩy
nở, đơm bông kết trái. Từ những ý niệm khởi đoan, cùng với sự chiêm nghiệm thực
tế đã hình thành triết lý Âm Dương dịch biến, quy luật căn cơ muôn đời của vạn vật
trong cuộc biến diễn thường hằng bất biến. Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng
giá trị đích thực của con người, với ý nghĩa nhân chủ trong văn hoá khởi đoan
của một nền triết học do con người dẫn khởi mà vẫn hài hoà với vũ trụ muôn
loài. Đề cao con người, tôn trọng sự sống của con người và muôn loài, muôn vật
trong đó con người vẫn cao quý thiêng liêng hơn hết. Người là mục đích đầu tiên
và cũng là cùng đích để phục vụ trong cuộc sống. Sự hài hoà giữa tinh thần và
vật chất, giữa tâm linh và thể xác, ý chí và tình cảm được biểu tượng bởi đôi
vợ chồng Nhân Thần:
Bố Rồng (ý chí) + Mẹ Tiên (tình cảm) = con
người
Bố Lạc (sức mạnh) + Mẹ Âu
(tâm linh) Việt Nam
(Vật chất ) (tinh thần) toàn diện
Con người cao quý hơn muôn loài, làm chủ
muôn loài muôn vật, nhưng vẫn hòa tâm cùng không gian, hòa tính cùng thời gian,
hòa thông cùng vũ trụ. Đó là quan niệm vạn vật đồng nhất thể, nhân thân tiểu
thiên địa của lý nhất trung trong triết lý Đông Phương. Nhân linh ư vạn vật vì
con người có một đời sống tâm linh cao vời sâu thẳm cùng với ý chí, nội lực tự
thân trong cuộc sống. Chính ý chí và nội lực của con người đã không ngừng sáng
tạo, lao tác chinh phục khống chế thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu hạnh phúc
an lạc của cuộc sống con người. Bố Rồng, Mẹ Tiên của truyền kỳ lịch sử cũng
chính là Bố Lạc, Mẹ Âu của hiện thực lịch sử đã tạo thành sức sống mãnh liệt vô
biên của dân tộc từ thời lập quốc cho đến ngàn sau. Dân tộc Việt đã chinh phục
thiên nhiên, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù dưới bất kỳ danh nghĩa nào, để
khẳng định trước nhân loại: Một dân tộc anh hùng đã có gần năm ngàn năm văn
hiến. Chính truyền thống yêu nước thương nòi xuất phát từ lòng tự hào dân tộc
con Rồng cháu Tiên, với ý chí kiên cường bất khuất, tinh thần hy sinh quả cảm
đã và sẽ đánh bại những kẻ thù xâm lược bạo tàn, từ đế quốc “Đại Hán” thống trị
thâm độc xa xưa đến chủ nghĩa Cộng Sản bạo tàn quỷ quyệt nhất hôm nay. Sức sống
Việt Nam đã được Hán Hiến Đế, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc phải tuyên dương “Giao Chỉ là đất Văn hiến, núi sông un đúc,
trân bảo rất nhiều, Văn vật khả quan, Nhân tài kiệt xuất…”.
Nền minh triết Việt khởi nguyên từ thần tổ
kép Tiên Rồng, uyên nguyên của triết lý Âm Dương Việt cổ, tinh túy của triết
học phương Đông. Âm Dương biểu tượng cho 2 mặt đối lập tương sinh tương khắc
nhưng không dẫn đến triệt tiêu, hủy diệt lẫn nhau mà cùng nhau tương hoà theo
lý đối lập thống nhất. Trong vũ trụ vạn vật muôn loài đều có 2 mặt đối lập với
nhau nhưng vẫn cần thiết có nhau, tương hòa để tồn tại. Nếu thiếu một trong 2
yếu tố căn bản hoặc âm hoặc dương thì sẽ không có muôn loài muôn vật. Nếu như
chỉ có nam mà không có nữ hoặc ngược lại thì cũng chẳng có loài người. Tuy nam
đối lập với nữ về nhiều mặt từ vóc dáng thể chất đến tình cảm tâm hồn nhưng cả
hai lại có tương sinh nếu hợp nhất lại: Nữ (Âm) + Nam (Dương), tình cảm + lý
trí, tinh thần + vật chất thì sẽ sinh thành con cái để truyền chủng tạo ra nhân
quần xã hội loài người.
Thực tế cuộc sống được chiêm nghiệm suốt
chiều dài của lịch sử loài người, đó là tuy đối lập nhưng vẫn hài hòa, thống
nhất trong đa dạng thì loài người mới tồn tại mãi tới ngày nay. Bất cứ muôn
loài muôn vật muốn tồn tại phải “tương hòa”, đó chính là đạo “Thái hòa” của nền
minh triết Việt Nam. Hòa hợp ngay tự bản chất mỗi vật, hòa hợp ngay chính bản
thân mỗi người như thể xác với tâm hồn, tình cảm với lý trí, tâm với tính, hài
hòa với thiên nhiên, hài hòa trong ứng xử giao tiếp với tha nhân, duy trì mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người, giữa dân tộc này với dân tộc khác để cùng
tồn tại chứ không cực đoan, mưu đồ tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống đòi
hỏi chúng ta phải cùng tôn trọng nhau, chấp nhận nhau dù có sự khác biệt. Phải
chấp nhận thống nhất trong đa dạng, lấy yếu tố con người làm đích điểm để cùng
chung sống trong hòa bình. Đó chính là triết thuyết Nhân bản cộng tồn, lấy con
người là chính để cùng chung sống trong hòa bình an lạc của nền minh triết Việt.
Trong khi các quốc gia khác trên thế giới
thường chọn một vật tổ biểu trưng, một ý thức hệ làm đích điểm nên đắm chìm
trong duy lý cực đoan của nhị nguyên luận. Quan niệm duy lý đã dẫn tới thái độ
cực đoan, không chấp nhận bất cứ cái gì khác, A là A chứ không thể vừa A vừa B
được. Chính đầu óc duy lý cực đoan trên đã đưa nhân loại đến bế tắc, đến ngõ
cụt là một cuộc chiến tranh hủy diệt, hậu quả của lý đối lập loại trừ. Nhân
loại đang trải qua thời kỳ khủng hoảng, bế tắc của tư tưởng nên hết chiến tranh
ý hệ lại quay sang chiến tranh dân tộc và tôn giáo đe dọa sự sống còn của nhân
loại. Chỉ có nền minh triết siêu việt nhân bản tâm linh Việt mới đưa nhân loại
thoát khỏi tình trạng bế tắc hiện nay để giải quyết vấn đề nhân sinh trước thềm
thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
RỒNG VIỆT NAM
Hình tượng Rồng qua
các Triều đại
(hình của Trần Ngọc
Thêm)
Rồng thời Lý
Rồng thời Trần
Rồng thời Lê
Rồng thời Nguyễn
Di vật
đầu chim Phượng
Cột trạm trổ
rồng trong cung điện tại Huế.
Tranh dân gian
Rồng của Người Việt cổ ở Trung Hoa
Rồng phương Tây
Rồng Thời Việt Nam
Cộng Hòa
Mặt ngọc thạch hình Rồng-Phượng của
Triệu Văn Vương
trong Lăng mộ của vua Nam Việt
Tượng Rồng Giao Long trên ấn bằng vàng của Triệu
VănVương
(The Museum of the Nanyue King. Nguyenxuanquang Blog).
Hình tượng Rồng Thái
Hình tượng Rồng Lào
cùng chung mô típ với Rồng thời Lý
(lyhocdongphuong.org)
Rồng quấn quanh Đền Wat Samphran
Chùa Wat Phrasingh, Chieng Mai Thái Lan
CHÚ THÍCH
1.
Đại Việt Sử Lược tác gỉa khuyết danh, Bản dịch của Trần Quốc Vương, NXB Thuận
Hoá 2001, tr 17.
2-3.
Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ, Lê Hy: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Viện Khoa Học Xã Hội
Việt Nam phát hành (1993) dịch từ bản in năm Chính Hòa thứ 18 (1697) là Nội các
quan bản. Bản chính của Nội các quan bản hiện đang lưu giữ tại thư viện của
trường Viễn Đông Bác Cổ Paris.
4.
Công trình nghiên cứu của Nguyễn Nguyên về Hán ngữ và các phương ngữ Bách Việt
ở Trung nguyên. Nhà nghiên cứu Nguyễn Nguyên dẫn tác phẩm “Người Hmong” của Chu
Thái Sơn cho biết họ Lý là dòng họ chính của đồng bào Dao nên năm 1060, vua Lý
Anh Tông mới cho dựng đền thờ Xuy Vưu ở phường Bố Cái. Dòng họ Lý là dòng họ
chính ở bán đảo Triều Tiên nên được xem như hậu duệ của Hmong Dao. Thực tế này
được thư tịch cổ TQ xác nhận là khi Lạc bộ Trĩ gồm Bách Bộc mà cổ sử Trung Quốc
gọi là rợ Đông Di bị đánh bật khỏi lưu vực sông Bộc và bán đảo Sơn Đông đã
thiên cư lên Đông Bắc thành lập nước Cao Câu Ly mà sử TQ gọi miệt thị là rợ Tam
Hàn. Lịch sử Hàn Quốc cũng ghi nhận có một Tổng Thống họ Lý là Lý Thừa Vãn và
cũng không phải tình cờ mà sau khi nhà Trần diệt nhà Lý mà Lý Long Tường phải
chạy ngược lên Triều Tiên để tỵ nạn vì đó là nơi đồng chủng định cư từ lâu
đời.Chính vì vậy, quan niệm cho rằng dân tộc Việt là một cộng đồng dân bao gồm
54 dân tộc là một quan niệm sai lầm, phản dân tộc vì đã phủ nhận cội nguồn gốc
tích của Việt tộc. Không thể có một dân tộc Kinh vì dân tộc Kinh là dân tộc nào?
Thực ra đây chính là chi tộc Việt sống ở
châu Kinh mà thôi. Cũng như không thể có một dân tộc Tày, dân tộc Mnong, dân
tộc Thái, dân tộc Hmong, dân tộc Mường mà chính là những chi tộc Việt trong
Bách Việt.
5.
Cổ thư chép là cả Vua Thuấn và ông Vũ đều mặc áo lông chim rồi cầm khiên múa
điệu vũ Li Vưu. Sau 3 năm là con số linh của Việt tộc thì Tam Miêu mới chịu
phục vì nhận ra Thuấn, Vũ có cùng một nền văn hoá, cùng một chủng tộc. Theo
Đổng Trọng Thư thì Li Vưu là cổ thiên tử, là vua phương Nam trước là viên quan
xem thiên văn có cánh mà không bay được hàm ý chỉ người thuộc chi Âu Việt thờ
chim. Tương truyền Li Vưu là rồng vàng cao cả, là người có 4 mắt, 6 tay với 2
phụ tá là thần gió và thần mưa. Công trình nghiên cứu của Kim Định cho biết Li
Vưu cũng là tên một bài múa gồm nhiều vũ nhân nhất 9.9 = 81. Li Vưu cũng chỉ lá
cờ hay xuất hiện trên bầu trời như hình sao chổi đuôi cong, nền cờ đỏ ở giữa có
hình tròn màu vàng mà sau này Hoàng Đế Quang Trung cũng chọn lá cờ này. Theo
nhà nghiên cứu Vũ Bình người Trung quốc thì khi giải mã chữ “Vũ” cổ đã cho rằng
đó là dáng múa của cư dân nông nghiệp khi cầu mưa. Vũ nhạc có quan hệ mật thiết
với lễ dâng hương của truyền thống thờ cúng thần mặt trời, thờ cúng tổ tiên của
cư dân nông nghiệp.
6.
chữ “Việt 易” là chữ Dịch “易” là mặt trời
(“Nhật日Việt”) chiếu sáng được đơn giản hóa và xếp theo
nghệ thuật, các “tia sáng “勿” được gom lại để ở phía dưới theo chữ “Vuông”
vừa đúng vừa đẹp. Kinh “Dịch 易” là kinh “Việt 易”, nước “Dương 楊”-Việt
là thêm chữ “mộc 木” vào chữ nầy.
8-9.
Hoàng Thị Châu: Mối Liện hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua tên sông ở Việt
Nam (Thời Đại Hùng Vương, NXB Hà Nội).
10.
Lê Xuân Diệm: Thời Dựng Nước, Lịch Sử Việt Nam Tập 2 tr 40. Tưởng Bỉnh Khiêm,
Ngô Miên Cát, Hạnh Thổ Thành” Văn hoá Dân tộc Bách Việt”, NXB Học Thuật Hạ Môn,
Trung Quốc, 1986, tr 401.
11.
Lĩnh Nam Trích Quái: Sách số A 1920 của Thư viện Khoa Học Trung Ương.
12.
Việt tộc có vật tổ biểu trưng là chim nên xem cái chế nhẹ như lông chim Hồng,
trong khi Hán tộc du mục sống trên lưng ngựa nên xem cái chết như “Da ngựa bọc
thây” là như thế. Núi Thái Sơn: Núi Thái Sơn ở Sơn Đông Trung Quốc bây giờ. Sở
dĩ dân gian so sánh công cha với ngọn núi Thái Sơn vì vùng Sơn Đông là địa bàn
cư trú của người Việt cổ mà cổ sử TQ gọi là “Lạc bộ Trĩ”. Từ thời Thương đã
đánh đuổi Lạc bộ Trĩ phải rời bỏ vùng đất tổ này chạy xuống phương Nam. Một số
chạy ngược lên bán đảo Triều Tiên thành lập nước Cao Câu Ly và chạy sang Nhật.
13.
Theo “Bách Việt Ngọc phả Truyền thư” thì sau chiến thắng lẫy lừng Đống Đa đẩy
lùi 20 vạn quân Thanh xâm lược, Hoàng Đế Quang Trung cử La Sơn Phu Tử Nguyễn
Thiếp làm Quốc Sử quán, khâm mệnh nhà vua về làng Vân Lôi để nghiên cứu
bản “Bách Việt Từ đường Tộc phả”. Sau
đó, vị Hoàng Đế anh minh lỗi lạc của dân
tộc đã thân hành đến nói chuyện thân mật với các vị bô lão, hương chức
và dân làng Vân Lôi. Theo nhà nghiên cứu Bùi văn Nguyên thì bản “Bách Việt Ngọc
phả Truyền thư” do trưởng họ Nguyễn Đức ghi vào năm thứ tư đời Đinh Tiên Hoàng
tức năm Tân Mùi 971 hiện còn lưu giữ ở làng Vân Lôi Hà Tây mà xưa kia là làng
Vân Nội thuộc phủ Thanh Oai tỉnh Hà Nội. Từ đường họ Nguyễn gốc ở làng Vân Nội
thờ từ Tổ Phục Hy gọi là Đế Thiên và Thần Nông gọi là Đế Thần trở xuống cho đến
các vua Hùng. Theo đương kim Tộc trưởng ông Nguyễn văn Tằng thì đền thờ từ Kinh
Dương Vương xuống tới các vị vua triều Nguyễn. Trong từ đường có bức hoành phi
và đôi câu đối do triều Nguyễn tặng: “Quốc Ân Gia Khánh” nghĩa là Lộc nước phúc
nhà. Đôi câu đối là “Muôn thuở phúc nhà lòng kính Tổ, Chín trùng lộc nước áo vua ban”.Theo nhà
nghiên cứu Bùi văn Nguyên thì sở dĩ có họ Nguyễn gốc là vì tổ tiên ta lấy địa
danh cái gò núi đất ở Vân Lôi xưa kia là Phong Châu nơi họ Nguyễn sinh tụ. Chữ
Nguyễn bên trái chữ phụ là cái gò đất, bên phải là chữ nguyên nghĩa là đầu
tiên. Trong khi đó, một nguồn thư tịch khác cho biết là ngay từ thời cổ đại ở
Cam Túc một tỉnh tiếp giáp với vùng Tam Giang Bắc, trên đường thiên di của Việt
tộc đã sinh tụ tại đây nên cổ thư đã nói tới họ Nguyễn, một nước Nguyễn
(Rhuan). Về sau họ Nguyễn thiên cư dần xuống trung nguyên rồi Hoa Nam và Việt
Nam bây giờ. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đều ghi nhận rằng Việt Nam có 3 dòng
họ lớn là họ Nguyễn, họ Trần và họ Lê. Trong 3 họ này, họ Nguyễn là đông nhất
vì theo các nhà nghiên cứu thì họ Nguyễn đã thiên cư dần từ Cam Túc, Thiểm Tây
xuống Hoa Nam rồi Việt Nam. Mặt khác, đời Trần vào thế kỷ 12 sau khi sắp xếp để
Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, Thái sư Trần Thủ Độ lấy cớ ông tổ họ
Trần tên Lý nên bắt tất cả những ai mang họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn. Chính vì
vậy họ Nguyễn ngày càng đông hơn.
14.
Thuỷ Phủ: Tên vùng đất nơi bố Lạc dẫn 50 con về miền sông nước ven bể. Thời kỳ
đó vùng đất này bao gồm từ cảng Thành Đô Tứ Xuyên tới Quảng Tây Quảng Đông còn
là biển cả mênh mông nên sử sách xưa gọi là Nam Hải. Từ trước tới nay chúng ta
cứ nghĩ là Bố Lạc dẫn 50 con xuống nước là thuỷ phủ. Thế nhưng gần đây thạc sĩ
Sử địa người Pháp là P. Gouron và J. Loubet, thạc sĩ văn chương đã xác nhận địa
danh “Thuỷ Phủ” (Suifu) trong tác phẩm “L' Asie moins L'AsieRussia” năm 1920
được in trên tấm bản đồ Pacilic Osean. Thuỷ Phủ ngày xưa chính là cảng Thành Đô
phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên bây giờ. Trên tấm bản đồ New International ATLAS
of the world của Geographical Publishing Company ấn hành năm 1949 cũng có địa
danh Thuỷ Phủ là Suifu, hiện là cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên
Trung Quốc bây giờ. Sự thật lịch sử này đã minh chứng hùng hồn tính hiện thực
của huyền thoại Rồng Tiên.
PHẠM TRẦN ANH
dienhongthoidai@gmail.com
Xin Mời vào Trang Nhà:
dienhongthoidai.com
phamtrananh.net
tunhanluongtamvietnam.Blogspot.com
No comments:
Post a Comment