ĐẠI THẮNG NGUYÊN MÔNG
ĐẠI DANH TƯỚNG TRẦN
HƯNG ĐẠO, MỘT THIÊN TÀI QUÂN SỰ…
Trong lịch sử chiến tranh xâm lược, vó ngựa
Mông Cổ chưa một lần thất bại. Trong nửa thế kỷ XIII, một đế chế rộng lớn chưa
từng thấy “Đế quốc” Mông Cổ trải dài từ Á sang Âu, từ bờ Thái Bình Dương đến
bên kia bờ Hắc Hải châu Âu. Từ Triều Tiên miền Viễn Đông đến thủ đô Mạc Tư Khoa
của đế chế Nga, Hungary, Tehran (Iran), Dammascus (Syria) và từ phương Bắc
xuống tận Miến Điện, Ấn Độ Dương…Không một dân tộc nào, một đội quân nào có thể
cản đường của vó ngựa Mông Cổ, một đội quân “Bách chiến Bách thắng” trên vó
ngựa xâm lăng từ Á sang Âu. Thế kỷ 13, hơn 2/3 nhân loại kinh hoàng khiếp sợ
đạo quân Mông Cổ đến độ ví von rằng ngay cả ngọn cỏ cũng không ngóc đầu lên
được dưới vó ngựa Mông Cổ. Thế mà đạo
quân thiện chiến tàn bạo được gọi là “Bách Chiến Bách thắng” này khi tiến xuống
Việt Nam, không phải một lần mà cả 3 lần đều bị quân dân Đại Việt đánh cho tan
tành, không còn manh giáp, chôn vùi vĩnh viễn tên tuổi của đế quốc Nguyên
Mông. Đây là những chiến tích oai hùng
của dân tộc Việt, một chiến tích thần kỳ của nhân loại khiến tham vọng xâm lược
và ngay cả số phận của đạo quân xâm lược cũng tan thành mây khói. Chính truyền
thống hào hùng bất khuất, lòng yêu nước thương nòi của toàn dân Việt với sự chỉ
huy tài tình của anh hùng dân tộc, Đại danh tướng Trần Hưng Đạo đã tạo nên
chiến tích có một không hai trong lịch sử nhân loại.
Năm 1253, Hốt Tất Liệt và Ngột Lương Hợp
Thai đem quân Mông Cổ đánh thẳng xuống Tây Nam Trung Quốc, tiêu diệt nước Đại
Lý chiếm toàn bộ vùng Vân Nam uy hiếp trực tiếp nước ta. Đạo quân gồm 3 vạn kỵ
binh này chuẩn bị đánh thẳng xuống nước ta rồi đánh ngược lên Ung Châu và Quế
Châu (Quảng Tây) hợp với đạo quân của Khubilai ở Ngạc Châu, tạo thành thế gọng
kìm chiếm toàn bộ Nam Tống. Trước khi tiến công, Hốt Tất Liệt cử sứ giả sang
chiêu dụ buộc nước ta phải thần phục nhưng vua Trần Thái Tông cương quyết chống
trả. Vua Trần cho bắt sứ giả và cử Trần Quốc Tuấn làm Tiết Chế đem đại binh
trấn giữ cửa ải phía Bắc. Quân Mông chia làm 2 mũi tiến xuống dọc sông Thao để
hội quân ở Việt Trì. Trận huyết chiến xảy ra bên dòng sông Thao, đích thân nhà
vua chỉ huy nhưng trước sức tiến công như vũ bão của đội quân thiện chiến, nhà
vua phải cho lệnh phá cầu Phù Lỗ rồi rút lui để bảo toàn lực lượng. Thừa thế,
quân Mông tiến công thẳng về Thăng Long. Thành Thăng Long được bỏ ngỏ, quân ta
rút quân về trấn giữ ở khúc sông Thiên Mạc khiến nhà vua và quần thần lo sợ nhưng Thái sư Trần Thủ Độ
vẫn vững tâm tâu với vua rằng : “Đầu thần
chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ chớ lo”.
Quân Mông tràn vào kinh thành chỉ thấy
thành không nhà trống. Theo Nguyên sử thì khi Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào
Thăng Long thấy 3 tên sứ giả đang bi giam cầm trong ngục, người nào cũng bị
những thanh tre bó chặt vào mình, hằn vào hẳn da thịt. Khi cởi trói thì có tên
đã chết. Hợp Thai tức giận cho lệnh tiêu hủy kinh thành, giết hết những người
già cả ốm đau bệnh tật vô tội còn ở lại Thăng Long. Sau đó quân Mông lâm vào tình
trạng thiếu thốn lương thực trầm trọng rồi do không quen thủy thổ phương Nam
nên bị bệnh tật rất nhiều, lòng quân hoang mang chán nản.
Biết giặc đang lâm vào thế tiến thoái lưỡng
nan, ngày 29 tháng 1, vua Trần Thái Tông ra lệnh Tổng phản công. Đại quân ta
tiến ngược dòng sông về Thăng Long, từ các hướng quân ta khép chặt vòng vây rồi
nhất loạt tiêu diệt tòan bộ quân giặc tại Đông Bộ Đầu. Thừa thắng, đại quân
tiến thẳng về kinh thành, đánh bật quân giặc ra khỏi Thăng Long. Tàn quân giặc
tháo chạy về hướng Vân Nam. Trên đường tháo chạy, đến Qui Hóa Yên Bái lại bị
dân quân sơn cước dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh Hà Bổng đánh cho tan tác. Viên
đại tướng nổi tiếng thiện chiến Uriankhadai bỏ xác tại trận, số còn lại chạy
thục mạng về Vân Nam. Vua Trần Thái Tông
tổ chức lễ mừng chiến thắng vào đúng dịp tết Nguyên Đán 1258 rồi tuyên bố
nhường ngôi cho Thái Tử, lên làm Thái Thượng Hoàng ở phủ Thiên Trường sau 33
năm giúp dân giúp nước.
CHIẾN THẮNG NGUYÊN MÔNG LẦN THỨ HAI
Tuy bị thất bại nặng nề trong cuộc xâm lược
năm 1258, nhưng triều Nguyên vẫn ỷ vào sức mạnh của đế quốc Nguyên Mông nên cử
sứ giả Sài Thung sang nước ta đòi vua Trần sang chầu nhưng đều bị vua Trần tìm
cớ thoái thác. Vua Trần cử Trần Di Ái là chú họ của vua sang Tàu nhưng vua
Nguyên không chịu. Triều Nguyên xuống chiếu thành lập “Tuyên Phủ Ty” và cử sang
“Giám trị” nước ta. Khi viên quan triều Nguyên đến biên giới thì bị quân ta
đuổi về. Vua Nguyên tức giận phong Trần Di Ái làm An Nam Quốc Vương rồi sai Sài
Thung hộ tống về nước. Quân nhà Trần bắn Sài Thung mù một mắt và bắt Trần Di Ái
phải tội “Đồ” làm lính như một quân sĩ bình thường. Vua Nguyên tức giận cử con
là Thoát Hoan làm Trấn Nam Vương cùng với 2 bộ tướng Toa Đô và Ô Mã Nhi
“mượn đường” nước ta để đem quân sang
đánh Chiêm Thành. Vua Trần Nhân Tông phong cho Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết
Chế thống lĩnh toàn quân. Tiết Chế Hưng
Đạo Vương ban lệnh cho các vương hầu hội 20 vạn quân thủy bộ tại Đông Bộ Đầu để
ban Hịch Tướng sĩ trong buổi lễ duyệt binh. Đồng thời nhà vua cho triệu tập các
bô lão trên toàn quốc về điện Diên Hồng trong cung để bàn việc “Hòa hay chiến”.
Toàn thể bô lão đồng thanh hô vang “Quyết chiến”, Quyết chiến đấu chống quân
Mông cổ xâm lược cho tới người Việt Nam cuối cùng.
Cuối năm 1284, quân Nguyên lấy cớ mượn
đường đánh Chiêm Thành để chia quân làm 2 mũi thủy-bộ tiến công nước ta theo
thế “Gọng kìm”. Thoát Hoan chỉ huy bộ binh tiến vào nước ta và Toa Đô chỉ huy
đại quân theo đường biển đánh chiếm Nghệ An rồi đánh ngược lên phía Bắc. Thế giặc
mạnh như vũ bão, tràn vào đánh chiếm Thăng Long. Quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ
huy đoàn chiến thuyền tiến vào cửa bể đánh chiếm các bến sông Hồng để đóng quân
từ khúc sông Đại Hoàng ở Hà Nam lên tới bến Thăng Long. Hưng Đạo Vương rước xa
giá nhà vua xuống Thiên Trường rồi sai Thượng tướng Trần Quang Khải đem quân
vào chặn đánh quân Toa Đô ở Nghệ An. Dũng tướng Trần Bình Trọng tử thủ Thiên
Trường để tiêu hao sinh lực quân địch tại đây, trong khi đó Hưng Đạo Vương đưa
vua Trần ra Hải Dương. Trần Quang Khải bị quân của Toa Đô từ trong Nam đánh ra,
quân của Ô Mã Nhi từ mặt bể đánh vào nên phải lui quân ra mặt ngoài. Quan Trấn
thủ Nghệ An là Trần Kiện chống cự không nổi phải đầu hàng. Tại mặt trận Thiên
Trường, Trần Bình Trọng anh dũng chống cự với hàng hàng lớp lớp quân Nguyên cho
đến khi kiệt sức bị bắt sống, không chịu ăn uống thức ăn của quân thù cho đến
khi bị chém đầu. Thoát Hoan chiêu dụ Trần Bình Trọng theo quân Nguyên sẽ phong
tước Vương nhưng anh hùng Trần Bình Trọng đã khẳng khái chửi thẳng vào mặt giặc
“Các ngươi cứ giết ta đi. Ta thà làm quỷ
nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Tấm gương hào hùng dũng liệt với câu
nói khí phách anh hùng đã đi vào lịch sử muôn đời của Việt Nam. Hưng Đạo Vương
lại hộ tống xa giá nhà vua ra Quảng Yên rồi cho thuyền tiến thẳng ra cửa bể Ngọc
Sơn để nghi binh. Trong khi đó, đưa vua lên bộ rồi lại xuống thuyền vào Thanh
Hoá.
CHIẾN THẮNG HÀM TỬ QUAN 1285
Quân của Toa Đô và Ô Mã Nhi bị quân của Trần Quang Khải chặn đánh nên không
tiến ra Bắc được, bèn đem quân vượt bể ra Bắc hội quân với Thoát Hoan. Được mật
tin, vua Trần sai tướng Trần Nhật Duật và Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái đem binh
ra mai phục chờ đánh đạo quân của Toa Đô ở Hải Dương. Khi quân Toa Đô vừa đến
bến Hàm Tử thì Trần Nhật Duật cho đội quân của Triệu Tung nguyên là một tướng
của triều Tống về theo quân ta mặc quân phục Tống triều ra đánh quân Nguyên.
Quân Nguyên tưởng rằng triều Tống đã đánh chiếm lại Trung Quốc nên hoang mang
tháo chạy. Quân ta thừa thắng xông lên đánh giết quân giặc, Toa Đô tháo chạy ra
cửa biển Thiên Trường.
CHIẾN THẮNG CHƯƠNG
DƯƠNG ĐỘ
Tin chiến thắng Hàm Tử Quan làm nức lòng
quân dân nhà Trần. Tiết chế Hưng Đạo
Vương biết quân giặc đã mỏi mệt suy
kiệt, tinh thần sa sút nên trình lên vua Trần Nhân Tông cho lệnh tổng phản
công. Hưng Đạo Vương sai tướng Trần Nhật Duật đóng quân chặn đường đánh không
cho quân của Toa Đô tiến lên Thăng Long. Đồng thời ra lệnh cho đại quân của
Thượng tướng Trần Quang Khải vừa từ Nghệ An kéo ra phối hợp với Trần Quốc Toản
và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hoá vòng theo đường biển tiến vào đánh bản
doanh quân Nguyên ở bến Chương Dương. Quân ta khí thế dâng cao ngùn ngụt, hàng
hàng lớp lớp tấn công ào ạt khiến quân Nguyên tháo chạy. Quân ta bỏ thuyền lên
bộ truy đuổi quân giặc chạy về đại bản
doanh của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long. Thoát Hoan đem quân ra bị lọt vào trận
địa mai phục của danh tướng Trần Quang Khải. Quân ta từ bốn phiá đổ ra tấn
công, quân giặc chết vô số kể nên Thoát Hoan phải bỏ Thăng Long tháo chạy sang
bờ bên kia sông Hồng. Đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long khí thế ngút
trời. Trong tiệc khao quân mừng chiến thắng, Thượng tướng Trần Quang Khải sang
sảng ngâm 4 câu thơ đi vào văn học sử nước nhà:
“Chương
Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù
Thái Bình nên gắng sức
Non nước rạng ngàn thu”
CHIẾN THẮNG TÂY KẾT
Toa Đô đóng quân ở bến sông Thiên Mạc để
tiến về Thăng Long. Sau khi biết đại quân đã tháo chạy, Toa Đô vội cho lui quân
về Tây Kết nghe ngóng tình hình. Tiết chế Hưng Đạo Vương sai Thượng tướng Trần
Quang Khải và tướng Trần Nhật Duật đóng binh chia cắt quân của Thoát Hoan và
Toa Đô, rồi thân chính đem quân tiêu diệt đại quân Toa Đô. Quân của Ô Mã Nhi và
Toa Đô tháo chạy lên bờ chạy ra hướng biển thì bị phục binh vây đánh. Toa Đô
trúng tên chết tại trận, Ô Mã Nhi lẻn xuống thuyền chạy vào Thanh Hóa rồi trốn
về nước. Hưng Đạo Vương bắt sống hơn 3 vạn quân Nguyên, tịch thu toàn bộ quân
trang vũ khí giặc chỉ trong một thời gian ngắn. Hưng Đạo Vương mở tiệc khao
quân rồi huy động toàn lực tiến đánh Thoát Hoan.
CHIẾN THẮNG VẠN KIẾP
Biết Thoát Hoan sẽ tìm đường tháo chạy về
nước nên trước khi xuất quân, Quốc Công Tiết chế ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão,
Nguyễn Khoái đem 3 vạn quân theo đường núi lên mai phục ở 2 bên rừng sậy ở Vạn
Kiếp. Hưng Đạo Vương sai 2 con là Hưng Võ Vương và Hưng Hiếu Vương dẫn 3 vạn
quân tiến ra Quảng Yên chặn đường giặc chạy về châu Tư Minh Trung Quốc. Hưng
Đạo Vương thân chinh chỉ huy đại quân tiến đánh Thoát Hoan ở Bắc Giang. Đại
quân Nguyên tháo chạy về Vạn Kiếp lọt vào trận địa mai phục của quân ta. Tướng
giặc Lý Hằng chết tại trận, Thoát Hoan, Phàn Tiếp, A Bát Xích, Lý Quán mở đường
máu thoát thân. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trên đường tháo chạy về gần
đến châu Tư Minh thì lại lọt vào ổ phục kích của Hưng Võ Vương và Hưng Hiếu
Vương, tướng giặc Lý Quán tử trận còn Thoát Hoan, A Bát Xích và Phàn Tiếp chạy
thoát về Tàu.
Lịch sử Việt ghi thêm một chiến thắng lẫy
lừng của quân dân Đại Việt. Chỉ trong 6 tháng từ cuối năm 1284 đến tháng 6 năm
1285, một đạo quân gồm 50 vạn tinh binh đã bị đánh tan tành không còn manh giáp
bởi lòng yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng của vua tôi nhà Trần dưới sự
chỉ huy tài ba của Tiết chế Hưng Đạo Vương. Đại danh tướng Hưng Đạo Vương đã đi
vào lịch sử không riêng của dân tộc mà còn là đại danh tướng của cả nhân loại
nữa.
CHIẾN THẮNG NGUYÊN MÔNG
LẦN THỨ BA 1288
Hốt Tất Liệt quyết tâm chiếm Đại Việt bằng
mọi giá để rửa mối nhục cho đế quốc Mông Cổ. Đầu năm 1287, vua Nguyên lại cử
Thoát Hoan làm Đại nguyên súy đem 30 vạn quân sang đánh phục thù. Để thực hiện
ý đồ này, Hốt Tất Liệt hủy bỏ ý định tấn công Nhật Bản để dốc toàn bộ lực lượng
vào chiến trường Đại Việt. Ngoài bộ binh và kỵ binh còn huy động lực lượng thủy
binh hùng hậu gồm 600 chiến thuyền chở vũ khí lương thực đầy đủ cho một cuộc
chiến lâu dài. Ngày 25 tháng 12, đại quân Mông vượt biên giới tiến vào nước ta
để phục hận. Cánh quân Vân Nam
do A Lỗ chỉ huy vượt biên giới tiến xuống Bạch Hạc rồi hội quân với Thoát Hoan
ở Phú Lương. Đại chiến thuyền của Ô Mã Nhi thẳng tiến vào cửa Quảng Ninh. Tướng
Trần Khánh Dư được lệnh chặn đánh lấy lệ chờ đoàn thuyền lương tới. Khi đoàn
quân lương vừa tới cửa Vân Đồn thì đại quân ta xông ra tiêu diệt toàn binh
thuyền hộ tống, tịch thu toàn bộ vũ khí lương thực. Hưng Đạo Vương sai Trần
Nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn 3 vạn quân lên trấn giữ Lạng Sơn, Trần Quốc Toản và
Lê Phụ Trần dẫn 3 vạn quân trấn giữ Nghệ An. Đích thân Hưng Đạo Vương thống
lĩnh đại binh đóng ở núi Phù Sơn trấn giữ Quảng Yên. Thế giặc mạnh tiến như vũ
bão, quân ta chống cự không nổi phải rút về Vạn Kiếp. Thoát Hoan điều động
Trịnh Bằng Phi đánh Vạn Kiếp, Ô Mã Nhi và A Bát Xích đem quân từ sông Lục Đầu
tiến đánh dọc lưu vực sông Hồng. Hưng Đạo Vương lại rút quân về giữ Thăng Long.
Quân Mông dưới sự chỉ huy của Lý Hằng và Khoan Triệt đang truy đuổi đoàn binh
thuyền chở vua tới sông Tam Trì thì Hưng Đạo Vương rước vua lên bờ rồi xuống
thuyền của Dã Tượng đậu sẵn ở sông Bạch Đằng khúc Hải Dương để vượt qua cửa bể
Đại Bàng vào Thanh Hóa rồi cử danh tướng Trần Nhật Duật đem đại quân chặn đánh
Toa Đô ở Hải Dương. Ô Mã Nhi tức giận không bắt được vua Trần nên cho lính quật
mồ vua Trần Thái Tông, phá nát lăng miếu nhà Trần ở Long Hưng cho hả giận để
trả mối thù nhục nhã năm xưa. Quân Nguyên đốt nhà cướp của, giết chồng hiếp vợ,
tàn sát bất kỳ già trẻ lớn bé đến nỗi Nguyên sử cũng phải ghi lại tội ác tầy
trời như sau: “Đốt phá chùa chiền, đào
bới lăng mộ, giết người già cả lẫn trẻ em, cướp của tàn phá sản nghiệp của trăm
họ, không có điều gì mà không làm khiến một dải đồng bằng từ Thăng Long đến các
lộ xơ xác tiêu điều …”.
Thoát Hoan đem đại quân đánh chiếm Thăng
Long mãi không được bèn rút về giữ Vạn Kiếp, Chí Linh và Phả Lại. Hưng Đạo
Vương đem đại binh tới bao vây quân giặc. Quân Nguyên lâm vào thế phòng ngự,
lương thực cạn kiệt dần, tinh thần binh sĩ sa sút …Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi dẫn
thủy quân ra cửa bể Đại Bàng đón thuyền binh lương của Trương văn Hổ. Trần Nhật
Duật chặn đánh nhưng bị thua nên quay đầu bỏ chạy. Ô Mã Nhi giương giương tự
đắc dẫn đoàn binh lương chạy vào cửa bể. Khi đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi mở
đường tiến nhanh đi trước, đoàn binh lương của Trương văn Hổ vừa vào vịnh cửa
Lục thì bị đoàn binh thuyền của Trần Nhật Duật phục sẵn nhất loạt tấn công.
Trương văn Hổ bỏ chạy sang đảo Quỳnh Châu, quân ta cướp toàn bộ lương thực vũ
khí của giặc. Chờ mãi không thấy đoàn
quân lương, Ô Mã Nhi dẫn đoàn chiến thuyền ra biển tìm kiếm nhưng vừa đến cửa
Đại Bàng thì bị quân ta chặn đánh bắt giữ hơn 300 chiến thuyền. Biết tin đoàn
quân lương bị tiêu diệt, Thoát Hoan hoảng sợ vội bỏ Thăng Long lui về Vạn Kiếp.
Nguyên sử chép “Ở Giao Chỉ không có thành
trì để chống giữ, không còn lương thực để ăn. Khí trời nóng nực, lương hết quân
mệt mỏi thì làm sao mà chống giữ nổi. Thật là hổ thẹn cho triều đình …chi bằng
rút quân về là thượng sách”. Thoát Hoan vội vã ra lệnh rút chạy theo 2
đường: Đại quân do Thoát Hoan chỉ huy rút theo đường Lạng Sơn, Tướng A Bát Xích
Abatri cho kị binh đi trước mở đường. Quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, Thân
vương Tích Lệ Cơ, Vạn Hộ Thủy quân Trương Ngọc rút theo đường thủy có kị binh
đi dọc 2 bờ sông để bảo vệ cho thủy quân.
Địch quân tháo chạy đúng như tiên liệu của
Hưng Đạo Vương nên khi giặc đến Vạn Kiếp rồi tiế về Thăng Long thì quân ta được
lệnh vừa đánh để tiêu hao sinh lực địch, vừa kềm chế để bảo toàn lực lượng rồi
rút về hướng Đông Bắc chờ lệnh tổng phản công. Đây là trận chiến mở đầu cho
chiến dịch tổng phản công của quân ta. Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Vương phân
công cho các danh tướng Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa dẫn quân lên phối hợp
với dân quân thiểu số địa phương mai phục sẵn ở ải Nội Bàng Lạng Sơn. Tướng
Nguyễn Soái cũng nhận lệnh chặn giặc tại đây. Ngày 30 tháng 3 năm 1288, thủy
binh của giặc với kị binh hộ tống bắt đầu rút chạy nhưng quân ta đã cho phá hết
các cầu nên kị binh phải quay trở lại Vạn Kiếp. Trong khi đó, đoàn thuyền vẫn
di chuyển chậm chạp mãi đến ngày 8 tháng 4 mới đến sông Bạch Đằng. Khi thuyền
giặc vừa tiến vào trận địa mai phục thì tướng Nguyễn Khoát dẫn chiến thuyền ra
nghênh chiến rồi giả vờ thua quay thuyền bỏ chạy. Ô Mã Nhi thừa thắng cho chiến
thuyền đuổi theo, đúng lúc thủy triều xuống nên chiến thuyền giặc lao nhanh
theo dòng nước đụng phải những hàng rào chông, những bãi cọc ngầm khiến chiến
thuyền giặc thủng vỡ tan tành chìm xuống dòng sông. Giữa lúc quân giặc còn đang
hoảng hốt bối rối không biết xoay trở làm sao thì quân ta gồm cả thủy bộ do nhà
vua cùng với Quốc Công Tiết chế chỉ huy tấn công ào ạt tứ phía. Cuộc chiến diễn
ra hết sức ác liệt, cuối cùng quân ta đại thắng, đạo thủy binh của giặc bị tiêu
diệt toàn bộ, xác giặc chết máu loang đỏ ngầu cả một khúc sông. Tướng giặc Ô Mã
Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ bị quân ta bắt sống, trên 400 chiến thuyền cùng với
những chiến lợi phẩm bị tịch thu. Chính lời thề của Hưng Đạo Vương cùng toàn
thể quân sĩ “Trận này mà không phá tan
giặc Nguyên thì quyết không về đến sông này nữa” đã tạo nên kỳ tích Bạch
Đằng Giang lịch sử. Thoát Hoan nhận được hung tin đạo thủy quân đã bị tiêu
diệt, Thoát Hoan hồn vía lên mây hốt hoảng lên ngựa tháo chạy. Đoàn kị binh của Trịnh Bằng Phi, A bát Xích,
A Lỗ Xích chạy trước mở đường, ộ binh chạy theo sau về hướng Lạng Sơn. Vừa đến
ải Nội Bàng thì đạo quân của danh tướng Phạm Ngũ Lão tứ các ngõ ngách đổ ra vây
đánh tới tấp, quân giặc hoảng loạn mạnh ai nấy chạy về Nữ Nhi, Khâu Cấp thuộc
Bắc Giang Lạng Sơn đều bị phục kích tiêu diệt gần hết. Thoát Hoan quát tháo
thúc giục tàn binh mở đường máu tháo chạy. Tướng hộ tống Thoát Hoan tử trận,
xác giặc nằm chết ngổn ngang suốt từ Ải Nội Bàng đến Tư Minh. Thoát Hoan len
lỏi trong đám tàn quân may mắn thoát chết, chạy thục mạng về đến nước rồi mà
vẫn chưa hoàn hồn. Quân Nguyên Mông tan rã hoàn toàn chạy về nước hú hồn vừa
thoát chết, lòng còn lo sợ nên không trình diện mà mạnh ai nấy bỏ về nhà. Cuộc
xâm lược của đế quốc Nguyên Mông lần thứ ba đã thất bại hoàn toàn, quân dân nhà
Trần vang ca khúc khải hoàn. Tháng 3 năm 1288, sau chiến thắng Mậu Tý Hưng Đạo
Vương cùng các tướng sĩ dẫn quân rước xa giá Thượng Hoàng và vua Trần Nhân Tông
về kinh đô. Khi về đến Long Hưng, vua Trần đem bọn tướng Nguyên gồm Ô Mã Nhi,
Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc vào quì chịu tội làm lễ “Hiến phù” trước Chiêu
Lăng. Với đức hiếu sinh, lòng từ bi độ lượng, vua Trần quì lạy Chiêu Lăng rồi
xin tha tội chết cho những kẻ thù đã đốt nhà cướp của, tàn sát dân Việt dã man,
kể cả Ô Mã Nhi, kẻ đã cho lính quật mồ
vua Trần Thái Tông, phá nát lăng miếu nhà Trần ở Long Hưng. Về đến Thăng Long,
nhà vua cho mở tiệc khao thưởng tướng sĩ. Nhân dân vui hội “Thái Bình Diên Yến”
suốt 3 ngày đêm bù lại những tháng ngày chiến đấu gian khổ với bao tang thương
chết chóc của toàn quân toàn dân Việt. Nghĩ tới đất nước vừa trải qua cơn binh
lửa nay lại thanh bình, Thái Thượng Hoàng cảm khái làm 2 câu thơ đi vào lịch
sử:
“Xã tắc lưỡng hồi lao
thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện
kim âu…
Đất nước hai phen chồn
ngựa đá,
Non sông thiên cổ vững
âu vang…”.
MỘT CHIẾN LƯỢC GIA LỖI LẠC CỦA MỌI
THỜI ĐẠI
Sách sử Việt chép rằng Trần
Hưng Đạo không những là một Danh Tướng, một thiên tài quân sự có một không hai mà Ngài còn là một
chiến lược gia lỗi lạc. Sử chép rằng Trần Hưng Đạo đã viết “Binh gia diệu lý
yếu lược” mà chúng ta thường gọi là “Binh Thư Yếu Lược” và “Vạn Kiếp Tông Bí
Truyền Thư” để dạy các tỳ tướng. Đặc biệt bài Hịch Tướng Sĩ tràn đầy lòng yêu
nước với những tự tình dân tộc đã kích động lòng người khiến ai ai cũng một
lòng giết giặc. Khác với “Binh Pháp Tôn Tử”, một chiến lược gia nổi tiếng thời
Xuân Thu Chiến Quốc của Trung Quốc, Trần Hưng Đạo đã không những viết ra cả bộ
“Binh Pháp” mà còn là một danh tướng chỉ huy thực hiện thành công những chiến
lược chiến thuật đề ra. Tiết chế Trần
Hưng Đạo khi "dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến
thoái, có một có một lòng tin sắt đá vào sức mạnh và ý chí của
nhân dân, của tướng sĩ quân lính …” .
Trong lịch sử chiến tranh, hầu như
không có cuộc rút lui nào mà không chịu nhiều thất bại, đặc biệt danh tướng họ
Trần đã thực hiện cuộc rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long để bảo toàn lực
lượng chờ cơ hội giặc
suy yếu sẽ phát động tổng phản công tiêu diệt giặc. Thiên tài quân sự chủ
trương “Tiêu Thổ Kháng Chiến”, áp dụng kế sách “Vườn Không Nhà Trống” để triệt
tiêu mọi nguồn thực phẩm cho quân giặc kết hợp với những hoạt động
nhịp nhàng giữa quân dân
địa phương (hương binh) và quân
triều đình, những trận tập kích và phục kích bất ngờ làm quân giặc kinh hoàng đã góp phần lớn cho sự
thành công chiến dịch tổng
phản công từ chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vân Đồn, và dứt điểm với trận Bạch Đằng Giang
lịch sử đã tạo nên một kỳ tích oai hùng nhất trong lịch sử… Chính vì vậy, thế giới phải vinh danh
Trần Hưng Đạo là một Đại Danh Tướng, một chiến lược gia lỗi lạc của cả nhân
loại.
Mặt khác, trong lịch sử chiến tranh của
nhân loại, người ta nói đến những danh tướng từ Alexandre Đại đế tới Nã Phá
Luân (Napole1on) nhưng chỉ nổi tiếng trong những cuộc chiến tranh xâm lược và
chính những người được gọi là danh tướng này như người hùng Napoleon của nước
Pháp cũng đã thất bại thảm hại trong trận Waterloo nhục nhã ê chề để cuối cùng
thân bại danh liệt. Trong khi đó, chiến thắng oai hùng oanh liệt của Trần Hưng
Đạo là chiến thắng của người dân bị xâm lược, tự nó đã nói lên tính chất “Đại
nghĩa, Chính Nghĩa” của cuộc chiến và cả 3 lần đều chiến thắng quân Nguyên Mông
đã chứng tỏ thiên tài quân sự “Bất Khả Chiến Bại” của Đại Danh Tướng Việt Nam
mà không có một viên tướng nào khác có được.
Là một viên
dũng tướng tài ba lỗi lạc xông pha trận mạc, luôn luôn đứng ở đầu song ngọn
gió, sống chết với quân lính, đối xử với quân lính như một người cha già khắt
khe nhưng bao dung độ lượng vô cùng. Lịch sử cũng chứng minh rằng rất nhiều
tướng lãnh nổi danh vì đã áp dụng chiến thuật Biển người, sẵn sàng thí quân bất
cứ lúc nào để đạt thắng lợi mà dân gian vẫn thường mỉa mai “Nhất tướng công
thành vạn cốt khô”. Đại Danh Tướng Trần Hưng Đạo hiểu rõ tâm lý của người dân,
luôn nhắc nhở nhà vua phải biết yêu thương nhân dân, phải biết “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc,
đó là thượng sách giữ nước vậy.” đừng bắt nhân dân phải đóng góp nhiều quá,
bắt nhân dân phải hy sinh nhiều… Tháng 6 năm 1300, Ngài lâm bệnh nặng. Lo ngại
Ngài qua đời nên đích thân nhà vua đã đến vấn an “Thượng Phụ” và hỏi kế sách
cứu nước: "Nếu có điều chẳng
may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?" Hưng Đạo Vương trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho
quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào
Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng
người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên
dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó
lại là một thời. Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt
đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn
mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị
bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản
binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy
quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các
tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền
biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con
thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước vậy."
ĐẠI DANH TƯỚNG TRẦN HƯNG ĐẠO, MỘT
NHÂN CÁCH SIÊU PHÀM…
Không người Việt Nam nào không biết danh
tướng Trần Hưng Đạo là người vì nước quên thù nhà, đặt quyền lợi của dân tộc
lên trên quyền lợi danh vọng cá nhân. Chính hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra bi kịch
“Em phải lấy vợ anh…” nhưng cũng chính từ bi kịch này, một Hưng Đạo Đại Vương
với nhân cách siêu phàm có một không hai trên cõi đời này. Thật vậy, vị vua
cuối cùng của nhà Lý không có con trai nên truyền ngôi cho con gái là công chúa
Chiêu Thánh. Năm 1225, công chúa Chiêu Thánh mới 7 tuổi lên ngôi lấy hiệu là
Chiêu Hoàng nhưng quyền chính trong tay Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ tư thông với
Trần Thái Hậu, cả hai tìm cách lấy cơ nghiệp nhà Lý nên cho cháu là Trần Cảnh
vào hầu Chiêu Hoàng trong cung. Đôi trẻ vui chơi vô tư lự nhưng do sự sắp xếp
của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và truyền ngôi cho chồng. Cơ nghiệp
nhà Lý trải qua 9 đời vua sau 216 năm trị vì thì chuyển sang nhà Trần. Thế
nhưng vua Trần lấy Lý Chiêu Hoàng vẫn chưa có con mà Thái sư Trần Thủ Độ thì
muốn họ Trần sớm có người thừa tự nên năm 1237, Trần Thủ Độ ép Trần Liễu, cha
của Trần Hưng Đạo phải nhường vợ là Thuận Thiên Công chúa đang có thai 3 tháng,
chị của Lý Chiêu Hoàng cho vua Trần Thái Tông là em ruột của Trần Liễu nên Trẫn
Liễu họp quân chống lại
Trần Thủ Độ. Trước
cảnh trái ngang, vua Trần Thái Tông chán nản bỏ đi lên núi Yên Tử đi tu. Thái sư Trần Thủ Độ
mang cả triều đình lên họp bàn việc nước tại chùa Yên Tử. Nhà sư trụ trì phải
khẩn nài và cả triều đình thỉnh vua Trần về kinh.
Truyện kể rằng, Trần Liễu lén trèo lên
thuyền vua Trần để phân trần tạ tội bị Trần Thủ Độ biết vội lên thuyền toan
giết Trần Liễu nhưng vua Trần lấy thân mình che cho Trần Liễu. Trần Liễu được tha tội
nhưng quân lính theo ông đều bị giết.
Trở về quê, Trần Liễu không quên mối thù Trần Thủ Độ nên tìm kiếm hắp những người
tài nghệ để dạy Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo). Lúc sắp mất, ông cầm tay
Quốc Tuấn, trăn trối: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết
dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được".* Quốc Tuấn nhớ lời cha dặn để trong lòng,
nhưng không làm theo lời
nhắn nhủ không để tình nhà lên trên nợ nước được. Tuy vậy, trong lòng vẫn áy
náy khôn cùng nên dọ hỏi hai thuộc tướng thân tín là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai tướng thuộc
hạ hiểu lòng dạ chủ tướng nên tâu rằng: "Làm kế ấy tuy được phú
quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và
quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà
không có trung hiếu"...Trần Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai
người hiểu lòng ngài. Một hôm Trần
Quốc Tuấn vờ hỏi con là Hưng Vũ vương: "Người xưa có cả thiên hạ để
truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào? Hưng Vũ vương thưa: "Dẫu
khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!". Trần Quốc Tuấn
ngẫm cho là phải. Người
con thứ là Hưng Nhượng vương Trần
Quốc Tảng. Quốc Tảng thưa ngay rằng “ Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có
được thiên hạ". Trần Quốc Tuấn rút gươm kể tội: "Tên loạn thần
là từ đứa con bất hiếu mà ra" và định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ vương
hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha. Sau
đó, ông dặn Hưng Vũ vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi
mới cho Quốc Tảng vào viếng".
Trong lịch sử Việt và lịch sử cả nhân loại
nữa phải ghi nhận một con người mẫu mực siêu vượt, một người không ham danh
vọng làm vua một nước, dám gác thù nhà để lo nợ nước, đành cam tội bất hiếu với
cha để không làm chuyện soán đoạt thì trên đời này chỉ có một Đức Hưng Đạo Đại
Vương mới làm được, tất cả đã chứng tỏ một nhân cách siêu phàm của Ngài. Chính
vì vậy dân gian khắp nơi trong nước đã lập đền thờ “Đức Thánh Trần” như một anh
hùng dân tộc, một nhân thần biểu trưng của tâm linh Việt.
PHẠM
TRẦN ANH
Viết nhân ngày giỗ của Đức Thánh Trần
Hưng Đạo 20-8 Âm Lịch (24-9-2013)
* Thật vậy,
trong hoàng tộc lúc đó, ai cũng biết giữa 2 gia đình họ Trần có mối hiềm khích
riêng nhưng Trần Hưng Đạo đã biết dẹp tình riêng để cùng chung lo việc nước. Một hôm,
Trần Hưng Đạo từ Vạn
Kiếp tới, Thượng Tướng Trần Quang Khải xuống thuyền đàm đạo rồi vui chơi suốt ngày
mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm gội, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm,
từng đùa bảo Trần Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm",
rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "May mắn lắm, hôm nay mới được tắm cho
Thượng tướng". Trần Quang Khải cũng vội vàng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho, thật vạn hạnh". Từ đó,
tình nghĩa qua lại giữa hai người
một văn, một võ dần dà thắm thiết khôn cùng…
Sử sách
cũng truyền tụng về truyện Ngài không nhận chức “Tư Đồ” trong lúc Thượng Tướng
Trần Quang Khải phải theo hầu vua. Sửu chép rằng “Trước kia, vua Trần
Thánh Tông thân đi đánh giặc, Trần
Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương
bắc đến. Trần
Thái Tông gọi Trần Hưng Đạo tới bảo: "Thượng tướng đi theo
hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc". Trần Hưng Đạo
thưa: "Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm
Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan
gia đi đánh giặc xa, Thái sư theo hầu mà bệ hạ lại tự ý
phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng
Quan gia và Thượng tướng. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa
muộn.". Sách Đại
Việt sử ký toàn thư kể: "Lúc ấy, xa giá nhà vua đang phiêu giạt, mà
Trần Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của An Sinh vương, nên có
nhiều người nghi ngại. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy có bịt sắt
nhọn. Mọi người đều gườm mắt nhìn. Trần Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi
chỉ chống gậy không mà đi. Còn nhiều việc nữa, đại loại như thế…”
Dân gian
còn truyền tụng về bản lãnh anh hùng bị đầu tên đâm chảy máu nhưng không hề biến
sắc mặt khiến Sứ Mông bái phục. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Sài
Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên
Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu... Vua Trần Nhân Tông sai Trần Quang Khải đến sứ
quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn
cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ
quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông
đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh
ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi
xuống pha trà, cùng uống với hắn. Sài
Xuân đưa mắt cho người hầu của Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào
đầu đến chảy máu,
để thử bản lĩnh của Ngài nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Sứ Mông Sài Xuân vô cùng bội phục nên
khi Ngài đứng dậy, Sài Xuân tiễn Ngài
ra tận cửa…”.
VUA TRẦN NHÂN TÔNG:
“Thế
giặc mạnh như vậy, mà ta chống tới cùng thì sinh linh muôn dân tàn hại, hay là
Trẫm hãy tạm chịu hàng để cứu muôn dân!!!”
ĐẠI DANH TƯỚNG TRẦN HƯNG ĐẠO:
“Bệ hạ
nói câu đó thật là nhân đức nhưng còn Tôn Miếu Xã tắc thì làm sao? Nếu bệ hạ
muốn hàng, xin hãy chém. đầu thần rồi sẽ hàng sau …”
GIỜ ĐIỂM RỒI ĐÂY !
Giờ điểm rồi đây hỡi tuổi xanh
Có nghe nét bút réo tung hoành
Có nghe màu mực sôi trang giấy
Sử bốn ngàn thu lửa đấu tranh …
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
HỠI TUỔI XANH
Giờ điểm rồi đây hỡi tuổi xanh
Đứng lên ta cứu lấy dân lành
Vì dân ta đáp lời sông núi
Nước đợi dân chờ hỡi các anh …
PHẠM TRẦN ANH