Saturday, September 21, 2013

TẾT TRUNG THU


TẾT TRUNG THU
RẰM THÁNG TÁM

Hàng năm cứ vào ngày rằm tháng tám nhà nào cũng lo ăn tết Trung thu, nhà nào cũng giăng đèn kết hoa, trên bàn thờ đầy đủ mọi loại bánh Trung Thu như bánh dẻo, bánh nướng để khi hạ lễ cho con trẻ tha hồ mà ăn. Nguyên uỷ tết Trung Thu là tết ngắm trăng vì ngày 15 tháng 8 âm lịch là ngày giữa mùa Thu nên trăng tròn nhất, thời tiết dìu dịu, khí trời trong thanh mát mẻ. Việt tộc là cư dân sống về nghề nông nên ngay tự thuở xa xưa, người Việt cổ đã chiêm nghiệm tứ thời bát tiết để biết thời vụ gieo cấy. Người Việt cổ đã quan sát mặt trăng để làm ra Nông lịch, đã biết tính nạn hồng thuỷ và con nước lên xuống.

 

Theo Nguyễn Siêu trong “Phương Đình Dư địa Chí” thì tương truyền vào thuở xa xưa, khi vua Nghiêu mới lên ngôi được 4 năm thì Việt Thường Thị theo tinh thần đại gia tộc Thần Nông đã đến biếu vua Nghiêu một con rùa Thần, trên lưng có ghi “Đồ phổ” làm lịch bằng chữ Việt cổ mà cổ thư Trung Quốc gọi là Khoa đẩu tự. Vua Nghiêu sai chép lấy rồi rồi cử hai anh em Hi Hòa về Nam Giao học cách làm lịch, học thiên văn ứng dụng vào số học để tính nạn hồng thủy và thủy triều. Sử cũ chép rằng vua Nghiêu xuống phương Nam tới thành Luy Lâu năm thứ 59 đời Nghiêu tức vào năm thứ 581 đời Hồng Bàng (năm 2.259TDL). Luy Lâu sau đọc là thành Liên Lâu rồi Câu Lâu, Cú Lũ là hang rùa. Đó là quận trị Giao Chỉ với các địa danh Long Biên, Mê Linh, Chu Diên lúc này còn ở Thương Ngô Nam Trung Quốc ( Hoa Nam). Sau này khi phải thiên cư xuống Bắc và Trung Việt Nam bây giờ tiền nhân mang theo địa danh cũ đặt tên cho vùng đất mới ở Bắc Việt Nam. Thư tịch cổ TQ cũng ghi là đời Chu Thành Vương năm thứ 6 tức năm 1.110 TDL, phái đoàn sứ bộ Việt Thường sang biếu chim Bạch Trĩ. Như vậy chính cổ sử Trung Quốc cũng phải xác nhận nước Việt Thường hiện hữu ngay từ thời Đế Nghiêu mà trên thực tế có thể có trước thời Đế Nghiêu nhiều.

 

Lịch nhà Hạ chính là Việt lịch tính theo chu kỳ mặt trăng. Việt lịch khởi đầu năm từ cung Dần, tháng năm ở vào cung Ngọ nên ngoài tết Âm lịch, Việt tộc còn ăn tết Đoan Ngọ nữa. Theo học giả Lê Quí Đôn thì “Việt Lịch tức Âm lịch tính theo hệ thống quĩ đạo mặt trăng ứng cho con nước mà bia đá dựng ở Cối Kê, kinh đô nước Việt thời Việt Vương Câu Tiễn ghi rõ là nước thuỷ triều lên xuống đúng chu kỳ với mặt trăng”. Vì vậy, ngay từ thuở xa xưa tiền nhân ta đã có tục “thưởng trăng”, các thi nhân ngâm vịnh thi phú “ Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên ...”.

 

Trong dịp tết Trung Thu, dân gian làm mâm cỗ với bánh dẻo, bánh nướng gọi là bánh Trung Thu cho con trẻ ăn, chơi đùa ca hát rồi rước đèn đi khắp phố phường. Nói tới trăng thì phải nhớ tới câu truyện “Thằng Cuội” và “Chị Hằng” trên mặt trăng. Dân gian Việt thường ví von “Nói dối như thằng Cuội” để chỉ những người chuyên dối trá người khác nên cuối cùng phải ở một mình thui thủi trên mặt trăng. Dân gian truyền tụng về sự tích “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa” như sau:

 

“Ngày xửa ngày xưa có một người tên là Cuội chuyên môn đi lừa dối người khác để trục lợi, thậm chí cả cha chú là người trong nhà cũng bị y lừa dối nên dân gian gọi thằng Cuội là kẻ

đi xa nói dối cha, về nhà nói dối chú … Từ đó tên thằng Cuội gắn liền với sự lừa dối khiến không ai có thể tin được nữa. Truyện kể rằng, có lần thằng Cuội đi lấy củi, thoát nạn bị hổ

ăn thịt được ông Tiên cho một cây đa thần, lá cây đa này dung để chữa bách bệnh thậm chí người chết có thể cứu sống được. Ông Tiên còn dặn dò Cuội là phải thường xuyên tưới nước sạch và cây phải trồng ở hướng Đông, cấm kỵ đi tiểu vào gốc cây vì cây bị ô uế sẽ bay lên trời mất. Chú Cuội nhà ta hí hửng mang về trồng ngay ở hướng Đông và ra vẻ bí mật dặn dò vợ rằng nhớ tưới cây bằng nước sạch và không được tiểu tiện vào gốc cây. Cuội dặn đi dặn lại vợ rằng: “ Có đái thì đái hướngTây, chớ đái bên Đông cây dông lên trời ...”. Lần nào cũng vậy, trước khi đi làm chú Cuội dặn đi dặn lại mãi khiến chị vợ vốn đã không tin Cuội nói thật mà nghĩ là y nói dối mình. Đã thế lại làm ra vẻ quan trọng cứ dặn đi dặn lại mãi khiến chị phát cáu bèn nảy ra ý nghĩ “ Đã vậy bà đái bên Đông xem sao” Nào ngờ cây đa thần gặp nước đái thì gốc rễ lung lay rồi từ từ bay lên trời. Đúng lúc đó chú Cuội về tới nhà thì thấy cây bay lên, y vội cầm chiếc cuốc móc vào cây kéo xuống nhưng cây đa vẫn bay thẳng lên trời kéo theo chú Cuội. Từ đó dân gian dưới hạ giới nhìn lên mặt trăng thấy chú Cuội ngồi một mình dưới gốc cây đa suốt đời này qua đời khác vì lòng tham và tội nói dối”.

 

Dân gian vẫn kể câu truyện này nhân dịp tết Trung Thu để nhắc nhở mọi người chớ vì lòng tham mà đi dối lừa người khác thì có ngày sẽ gặp hoàn cảnh hẩm hiu như thằng Cuội. Từ đó vào dịp tết Trung Thu trẻ con thường tụ tập nhau vui chơi ca hát rằng “ Chú Cuội ngồi gốc cây đa, Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời .. Cha còn cắt cỏ trên trời, Mẹ còn gánh lúa đi mời quan viên ..!”.

 

SỰ TÍCH NÀNG HẰNG NGA VÀ CHÀNG HẬU NGHỆ

 

Theo nhà văn Toan Ánh trong tác phẩm “Phong tục Việt Nam qua Lễ Tết Hội hè” thì sự tích con Thiềm thừ trên mặt trăng như sau: “Theo truyền thuyết thì tiền thân con thiềm thừ là nàng Hằng Nga, vợ chàng Hậu Nghệ là vua xứ Hữu Cung có tài thiện xạ bách phát bách trúng. Hậu Nghệ có dịp lên vườn Lãng Uyển, xin Đức Giao Trì Vương Mẫu ban cho thuốc trường sinh bất tử. Mang thuốc về, Hậu Nghệ không uống ngay vì phải đi đánh giặc nên cất thuốc vào lọ. Cô vợ là Hằng Nga thấy vậy sinh lòng tham lấy trộm thuốc uống rồi bay lên mặt trăng ra mắt Thái Âm Thần nữ kể rõ sự tình và xin thần che chở cho. Thái Âm Thần nữ biến Hằng Nga thành con Thiềm thừ rồi đem giấu trong cung Quảng Hàn. Hậu Nghệ đi trận về thấy mất cả thuốc trường sinh lẫn vợ nên tức giận vô cùng. Hậu Nghệ cho là vợ đã trốn lên trời nên nhất quyết đi tìm vợ cho bằng được.

 

Thuở ấy trên trời có tới 10 mặt trời, Hậu Nghệ tức giận bắn rớt chín mặt trời nhưng không thấy vợ đâu. Còn một mặt trời chàng tính bắn nốt nhưng sợ tối trời không thấy đường tìm vợ nên không dám bắn. Mặt trăng thuở ấy chỉ có một nên chàng sợ ban đêm không thấy đường đi tìm vợ nên cũng không bắn. Cuối cùng Hậu Nghệ không tìm thấy vợ và nàng Hằng Nga vì tham lam thuốc trường sinh bất tử mà phải chịu kiếp làm con Thiềm Thừ ẩn nấp trên cung Quảng Hàn mãi tới ngày nay …”. Trên mặt trăng còn có một vết đen trắng trông giống như hình con thỏ trắng nên dân gian truyền tụng sự tích con Ngọc Thố như sau: “Ngày xửa ngày xưa, gặp lúc trời hạn hán kéo dài mùa màng thất bát, cả người lẫn vật đều lâm vào cảnh đói khát nên tàn sát lẫn nhau để giành sự sống cho riêng mình. Thỏ là loài vật yếu đuối lại không có vũ khí để tự vệ nên chúng đành nhịn đói nằm chờ chết cùng nhau chứ không dám ra ngoài. Trời khuya lạnh thấu xương, đã đói lại rét nên sẵn có đống lửa, chúng rủ nhau cùng tới nằm quanh đống lửa sắp tàn mà lòng đói cồn cào. Con nọ nhìn con kia rồi nhỏ từng giọt nước mắt xuống đất thương cho thân phận bọt bèo của chúng. Trong đàn thỏ có con thỏ trắng thấy vậy thương đồng loại, cầm lòng không được bèn nhảy vào đống lửa tàn để cho các con khác ăn thịt mình cho đỡ đói hi vọng qua cơn hoạn nạn. Lúc ấy ở trên trời Đức Phật nhìn xuống thấy con thỏ trắng có nghĩa khí biết thương đồng loại dám hi sinh cả mạng sống của chính mình trong khi loài người còn chẳng biết thương nhau ăn thịt cả đồng loại, còn chém giết hận thù thua một con vật. Đức Phật nhặt nắm xương cháy đen của nó rồi hóa phép cho nó sống lại với hình hài toàn bằng ngọc trong sáng đẹp đẽ vô ngần. Ngài đưa nó lên mặt trăng, xin cho nó một viên thuốc trường sinh và nói với Thái Âm Thần nữ cho nó ở luôn trên mặt trăng”. Từ đó, dân gian hạ giới thấy có hình con Ngọc Thố trên mặt trăng là do sự tích ấy”.

 

LỄ HỘI TRUNG THU

 

Vào dịp Tết Trung Thu dân gian miền Hoa Nam Trung Quốc (Khoa Khảo Tiền sử đo chỉ số sọ và khoa Di Truyền Học đều xác nhận người dân TQ ở miền Đông Bắc và người TQ ở miền Nam đều là người Trung Quốc gốc Việt cổ) và Việt Nam bây giờ đều tổ chức lễ hội thi cỗ và thi đèn Trung Thu. Gia đình nào cũng nô nức trổ tài nữ công gia chánh chuẩn bị làm đủ mọi loại bánh ngon miệng và giăng đèn kết hoa đủ loại nào là đèn ngôi sao, đèn mặt trăng, đèn kéo quân... để cho con trẻ mang đi thi rồi rước đèn thành từng đoàn người dài dằng dặc khắp phố phường. Người lớn thì tổ chức hội hát Trống quân truyền thống của Việt tộc.

 

Hát Trống quân là điệu hát dân gian gồm 2 bên nam nữ hát đối đáp nhau theo vần hoặc theo ý hoặc bằng những câu hát đố nhau để bè bên kia hát đối liền, thường là những câu đối sẵn hoặc do tự ý sang tạo ra để ứng khẩu đối đáp với nhau. Mỗi năm 2 lần, dân gian Việt khắp nơi đều tổ chức lễ hội mùa Xuân và mùa Thu, dịp này trai thanh gái lịch dập dìu tài tử giai nhân đi dự lễ hội để tìm hiểu nhau, bày tỏ tình yêu nếu yêu nhau thì sẽ hợp than ngay trên bãi cỏ, nương dâu. Đây là truyền thống dã hợp cùng trời đất để mùa vụ tốt tươi, đơm bông kết trái, sinh sôi con cháu đầy nhà.

 

Thuở xa xưa, người Việt cổ là cư dân nông nghiệp, bản chất hồn nhiên, hiền hòa chân chất nên hàng năm vào ngày lễ hội mùa Xuân mùa Thu nếu trai gái yêu nhau thì về nhà làm lễ cưới và không đi dự lễ hội Xuân Thu nữa. Nếu chưa có ý trung nhân thì mùa sau lại đi dự lễ hội tìm người bạn đời. Ý tưởng đơn sơ chân chất đó thể hiện tình cảm bình thường của một con người chứ không mang tính “Dâm bôn” như Hán tộc phong kiến Hán tộc gán ghép cho. Đó chính là quyền tự do luyến ái, tôn trọng giá trị và nhân phẩm phụ nữ chứ không xem nhẹ phụ nữ, tước đoạt quyền sống của người phụ nữ như cái gọi là lễ giáo phong kiến Hán tộc buộc hôn nhân phải qua mai mối áp đặt, gả bán để người phụ nữ thiệt thòi, gia đình mất hạnh phúc. Trong dịp lễ hội này, tại các làng xã xa xôi hẻo lánh tới nơi phồn hoa đô hội đều tổ chức hát trống quân. Người ta lấy một chiếc thùng gỗ hoặc thùng thiếc rỗng, trên mặt thùng có căng một sợi dây gai chắc về sau là một sợi dây thép hai đầu buộc chặt vào 2 chiếc cọc đóng xuống đất ở hai bên chiếc thùng, cách xa chiếc thùng mỗi bên là 1 mét. Để cho dây thật căng, người ta dùng 1 hoặc 2 que nhỏ chụm vào nhau trên mặt thùng cùng chống đỡ sợi dây. Khi vào hội, người ta dùng chiếc dùi tre nhỏ đánh vào sợi dây tạo ra những âm thanh “thình… thùng…thình…” bắt nhịp cho câu hát mở đầu lễ hội:

 

Trống quân trống quít trống còi,

Ta chẳng lấy nó, nó đòi lấy ta ..

Thình … thùng … thình !

Trống quân anh đánh nhỉp ba,

Lúc vào nhịp bảy, lúc ra nhịp mười ..

Thình … thùng … thình ..!

 

Trước đây một số nhà văn cứ đọc sách Tàu nói về một sự tích gì là cứ nhắm mắt sao y bản chính cho là của Tàu. Từ cái gọi là tết Hàn thực mồng ba tháng ba, tết Đoan Ngọ mồng năm tháng năm, tết Trung thu … tất cả đều là của Tàu. Thí dụ như ngắm trăng chơi đèn đêm rằm tháng tám là cho là sự tích của ông vua Tàu Đường Minh Hoàng du nguyệt điện xem vũ Nghê Thường, rồi hát trống quân bắt đầu bắt đầu từ đời vua Tống Nhân Tông do Bao Chuẩn đặt ra lối hát trống quân cho quân lính tranh đua nhau hát quên đi nỗi nhớ nhà. Thật ra “Nghê Thường Vũ y khúc” mà Đường Minh Hoàng xem thì “Nghê” chỉ màu ráng đỏ của phương Nam, “Thường” là chiếc váy, “Y vũ” là áo bằng lông chim ngũ sắc lấy từ núi Vũ Di Sơn về có sự tích từ thời vua Thuấn chính là của Việt tộc chứ đâu phải của Tàu. Đường Minh Hoàng chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Nam nên thích điệu vũ này cũng như Lưu Bang tức Hán Cao tổ sinh trưởng ở vùng Giang Hoài chịu ảnh hưởng của văn hóa Việt nên khi lên ngôi cũng tế Xuy Vưu (Li Vưu) rồi lại chọn rồng làm vật tổ là chuyện dễ hiểu. Theo triết gia Kim Định thì trong lãnh vực văn hóa nước ta, nếu ai muốn đưa ra một sự kiện vừa căn bản vừa bao trùm hơn hết còn sót lại từ buổi sơ nguyên thì đó là “Trống Quân”. “Chính tục lệ này nếu không cung ứng thì cũng biểu thị một cách chói chang, phong phú hơn hết cái cơ cấu uyên nguyên về vũ trụ quan của tiền nhân Việt tộc cũng như về mối nguyên lý hướng dẫn trọn nền triết lý nhân sinh của phương Đông, nơi nhân sinh quan đặt nền tảng trên đạo vợ chồng: Chồng tín vợ trinh. Trống quân chính là biểu diễn lại cái nét lưỡng hợp sinh động. Cho nên nắm vững tinh thần trống quân chính là hiểu được đầu mối cái cơ cấu triết lý sinh động của tổ tiên xưa kia vậy … Sở dĩ hát liên hệ với trống quân vì trống quân chính là đạo trời đất hay nói cách khác là lễ hòa hợp trời đất nên cần tiết nhịp như đất cùng trời, nhất là trời. Tiết trời thì như sáng với tối, Xuân với Hạ. Tiết đất thì như Đông với Nam, sông với núi. Vậy mà hát cũng đầy nhịp, có thể nói đó là nhịp nghĩa là chưa cần đến lời thì nhạc đã khởi sự có từ lúc có nhịp. Do đó, ngôn ngữ nào giàu nhịp nhàng nhất cũng là giàu nhạc tính nhất, hợp với trống quân hơn cả. Việt ngữ là một trong những tiếng giàu song ngữ như thanh thanh, nhẹ nhõm, nhảy nhót, vàng vọt, lung tung, lè phè, tà tà .. Vì vậy nhiều người ngoại quốc đã nhận xét rằng người Việt nói như ca hát, nói tiếng Việt đã là ca hát. Đa âm như tiếng phương Tây hay độc âm như tiếng Tàu không nói lái được thì làm sao mà co dãn biến hóa để mà hát trống quân. Đặc biệt tiếng Việt, nói với thơ hầu như gieo một vần ngay trong câu nói “Có mới nới cũ, vì cây dây quấn”, mà đó là thể lệ trong khi hát trống quân. Khi hát trống quân, nói bằng thơ, hỏi bằng thơ và đáp cũng bằng thơ. Hỏi là phải thưa liền, ứng khẩu thành thơ hoặc dùng câu vè là một lối ở giữa thơ và nói. Nói như thơ, thơ như nói mới là hát trống quân. Về thơ thì vè là thơ không những trong tiếng đôi mà luôn trong câu đối, đó là thể lục bát so le làm nên nhịp câu. Cả nhịp tỏ trong từng từ (6-8) lẫn nhịp ngầm trong cặp đôi (3-4). Còn về mặt triết lý thì nó ẩn trong một nét lạ lùng là gieo vần trên lưng câu sau ví dụ như hai câu mở đầu Truyện Kiều cùa Nguyễn Du”:

 

Trăm năm / trong cõi / người ta

Chữ tài / chữ mệnh / khéo là / ghét nhau

 

Học giả Granet đã nhận xét một cách hết sức tinh tế như sau: “Lễ tế Giao phát xuất từ hát Trống Quân nhưng sau bị Hán tộc đàn áp Trống quân thì tế Giao có thể đóng vai trò thay thế và nhân đấy là biến thể của Trống quân”. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong “Đại Việt Sử ký Toàn thư” viết: “Mãi đến thế kỷ XII vẫn còn hát đối nam nữ. Từng đôi trai gái kết tay giao chân rồi cài hoa kết hoa gọi là hát lý liên. Lối hát giao tình này về sau biến thể thành hát Đúm, hát Xoan ( Xuân), hát quan họ là những tiết mục chính trong các lễ hội dân gian, hội làng Việt Nam”.

 

Hát Trống quân là lối hát truyền thống của Việt tộc nên được duy trì mãi cho đến ngày nay. Đặc biệt là vào thời nhà Trần, Đức Trần Hưng Đạo cũng thường xuyên cho quân lính hát trống quân để vui chơi giải trí, quên bớt những gian khổ nhọc nhằn của chiến binh đã góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt đạo quân Nguyên Mông hung hãn một thời. Hoàng Đế Quang Trung cũng thường cho quân lính hát trống quân trong những lúc nhàn rỗi, những đêm trăng thanh gió mát và đặc biệt trong dịp tết Trung Thu, nhà vua chia quân lính ra làm 2 bên, một bên nam và một bên giả nữ để cùng nhau hát đối đáp sinh động hào hứng quên đi nỗi nhớ nhà và những gian khổ nhọc nhằn của đời sống chiến binh. Chính những trị vui chơi giải trí này đã tạo nên bầu không khí tươi vui hào hứng góp phần không nhỏ vào chiến thắng oai hùng của dân tộc ta suốt trường kỳ lịch sử.

 

PHẠM TRẦN ANH

No comments:

Post a Comment