NS Lê Dinh cảm nhận về: TÂN NHẠC VIỆT NAM dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa
Saturday, September 14th, 2013
Ảnh: Nhạc Sĩ Lê Dinh, một trong những nhạc sĩ
từng nổi danh trước 1975, và là một trong ba
nhạc sĩ có bút hiệu chung: Lê Minh Bằng
gồm Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng
LÊ DINH
Về âm nhạc, từ 38 năm nay, thành thật và công bình mà
nói, chúng ta có thấy sự tiến triển nào trong bộ môn này không, hay là
một sự tụt lùi tệ hại từ năm 1975 đến nay, hay nói một cách khác, CSVN
đã giết chết âm nhạc Việt Nam.
Nhìn lại ngày khởi đầu của nền âm nhạc Việt Nam, từ những ca khúc đầu
tiên mà những bậc tiên liệt của nền âm nhạc để lại – được gọi là nhạc
cải cách – như Một kiếp hoa (Nguyễn văn Tuyên & Nguyễn văn Cổn),
Khúc yêu đương (Thẩm Oánh) Bình minh (Nguyễn Xuân Khoát), Bản đàn xuân
(Lê Thương), Tâm hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bóng ai qua thềm
(Văn Chung), Cùng nhau đi Hồng Binh (Đinh Nhu), Thu trên đảo Kinh Châu
(Lê Thương)…, chúng ta thấy, dù đã ra đời hơn 80 năm nay, còn phôi thai,
nhưng âm nhạc VN thuở đó nghe rất có hồn nhạc, lời lẽ tuy không trau
chuốt văn chương, nhưng không khó nghe và lai căn như bây giờ. Chẳng hạn
như bài “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương, một bài âm hưởng nhạc
Nhật thời đó, tuy được sọan sau, nhưng cũng được coi như là một trong
những ca khúc đầu tiên của gia tài âm nhạc Việt Nam.
Nhắc lại để chúng ta thấy rằng tuy là những ca khúc đầu tiên, khởi
thủy của nền âm nhạc Việt Nam, nhưng dù đã 83 năm qua, vẫn còn nghe
được, hơn nhạc bây giờ ở trong một nước có tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam. Chứng minh điều đó là gần một thế kỷ qua mà người ta còn
nhớ ca khúc “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương.
Tiếp theo thời kỳ âm nhạc phôi thai, hay âm nhạc cải cách, đó là giai
đọan nhạc được gọi là nhạc tiền chiến mà tôi nghĩ rằng vài trăm năm sau
đi nữa, vẫn còn được nhắc nhở tới. Những tác giả như Văn Cao, Đặng Thế
Phong, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Hoàng Quý, Nguyễn văn Thương, Phan Huỳnh
Điểu, Nguyễn văn Tý, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương… đã để lại
cho chúng ta một gia sản âm nhạc đồ sộ, chỉ trong vòng có 20 năm ngắn
ngủi. Nhắc lại những bài như:
“Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc lối đào nguyên…”
Hoặc:
“Suối mơ, bên rừng thu vắng
Giòng sông trôi lững lờ ngoài nắng…”
Hay:
“Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thoát rơi
Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi…”
Hoặc như:
“Biệt ly, nhớ nhung từ đây
Chiếc lá rơi theo heo may…”
Chúng ta nghe âm điệu sao mà du dương, uyển chuyển, tha thiết, thấm
vào lòng người. Còn lởi ca sao mà lãng mạn, yêu đương, tình tứ ngọt ngào
đến như thế.
Rồi bước qua giai đọan nhạc kháng chiến (nhạc cách mạng), một lọai
nhạc hừng hực lửa của thời toàn dân đứng lên đánh đuổi thực dân. Những
tác giả tiêu biểu cho lại nhạc hùng tráng như đánh thẳng vào lòng người
này có Phạm Duy, Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Hoàng Quý, Lê Yên, Phạm Duy
Nhượng, Phạm Đình Chương, Văn Giảng… Nhưng phải công nhận rằng Phạm Duy
là người có tác phẩm âm nhạc cổ súy tinh thần tranh đấu bài thực nhiều
nhất, hay nhất. Làm sao mà chúng ta quên được, dù 1000 năm sau, những âm
điệu và lời ca như:
“Ngày bao hùng binh tiến lên
Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến…”
Hoặc man mác căm hờn, như:
“Chiều qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng
Không bóng trâu cày bên đồng
Vắng tiếng heo gà trên sân
Chiều qua, gánh nước cho Vệ Quốc Quân
Nghe tiếng o nghèo kể rằng:
Quân thù về đây đốt làng…”
Rồi 1954 ập đến, chia hai nền âm nhạc, một nửa phát triển mạnh mẻ ở
xứ tự do, phóng khoáng và một nửa chôn vùi trong chốn ngục tù, sau bức
màn tre. Một số đông nhạc sĩ sáng tác ở miền Bắc ngày trước đã tìm tự do
nơi miền Nam – đất lành chim đậu – cùng chung với những nhạc sĩ sáng
tác đã sống trước đây dưới chính thể Đệ nhất Cộng Hòa, kết hợp thành một
lực lượng sáng tác mạnh nhất, vững chải nhất, nhân bản nhất và lãng mạn
nhất. Thôi thì trăm hoa đua nở.
Ngay từ ngày đầu di cư, chúng ta có những Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Y
Vân, Nhật Bằng, Hoàng Trọng, Đoàn Chuẩn, Huyền Linh, Phạm Đình Chương,
Ngọc Bích, Đan Thọ, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Trọng Khương, Tuấn Khanh, Hoài
Linh, Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, Canh Thân, Vũ Thành, Vũ Huyến, Hoài
An, Thanh Bình, Lê Hoàng Long, Nhật Bằng…, cùng với những nhạc sĩ miền
Nam nổi bật lúc đó, như Phạm Duy (đã có mặt ở Saigon từ 1951), Lam
Phương, Trúc Phương, Châu Kỳ, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Anh Việt Thu, Châu
Kỳ, Mạnh Phát, Hoàng Thi Thơ, Nguyễn văn Đông, Hoàng Nguyên, Anh Việt,
Phạm Mạnh Cương, Lê Mộng Bảo, Huỳnh Anh, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh,
Khánh Băng, Minh Kỳ, Anh Bằng, Lê Dinh… và một số nhạc sĩ trẻ của thời
đó như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Trường Sa, Trường
Hải, Đỗ Lễ, Nguyễn Ánh 9, Thanh Sơn, Bảo Tố, Song Ngọc, Dzũng Chinh, Hàn
Châu, Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang, Đinh Trầm Ca, Giao Tiên, Thăng Long,
Đài Phương Trang… hợp thành một đội ngũ sáng tác dưới chính thể tự do
của hai nền Cộng Hòa ờ miền Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975.
Dù dưới hình thức nào, với bất cứ đề tài nào, nhạc sĩ của miền Nam tự
do cũng viết nên những tác phẩm giá trị, nhất là những tình khúc và
những bài ca ngợi người chiến sĩ VNCH, còn tồn tại, vang dội cho đến
ngày nay.
Trong khi đó, miền Bắc với chính sách bịt miệng và láo khoét, cho nên
nhạc sĩ miền Bắc viết toàn những bài ca tụng bác Hồ (của họ) gàn dỡ, vô
duyên, không thể nào lọt vào tai thính giả được. Chỉ một mình nhạc sĩ
Thuận Yến thôi mà cũng có đến 26 bài ca ngợi bác Hồ. Ngoài ra còn có
những Đỗ Nhuận, Phạm Tuyên, Vân An, Trần Hoàn, Lưu Cầu,Trọng Loan, Phong
Nhã, Huy Thục, Lê Lôi, Chu Minh v.v…viêt những bài nhạc tuyên truyền,
đề cao CS một cách lố bịch. Cả Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu,
Đỗ Nhuận… cũng bị lôi cuốn trong việc sáng tác lọai nhạc bưng bô này,
như Văn Cao với “Ca ngợi Hồ Chủ tịch’, Lưu Hữu Phước với “Tình bác sáng đời ta”, Phan Huỳnh Điểu với “Nhớ ơn bác”, Đỗ Nhuận với “Bé yêu bác Hồ”…
vì không viết để ca tụng, tung hô bác thì không có gạo mà ăn. Nội cái
áo của bác và đôi dép của bác thôi mà cũng có đến 5 bài hát nói về áo và
dép này. Chỉ còn thiếu cái áo lót của bác thì chưa có nhạc mà thôi.
(Dưới thời đệ Nhất Cộng Hòa – và luôn cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa – miền Nam
VN chỉ võn vẹn có một bài hát duy nhất ca tụng cá nhân vị nguyên thủ
quốc gia mà thôi. Đó là bài Suy tôn Ngô Tổng Thống của Ngọc Bích và Thanh Nam.
Đây không phải là chú trương của chính phủ đề ra để bắt buộc văn nghệ
sĩ sáng tác ca tụng lãnh tụ, mà đó là ý nghĩ riêng của hai tác giả, vì
muốn mang ơn người đã khó khăn lắm mới đem đến sự an cư lạc nghiệp cho
gần một triệu đồng bào di cư miền Bắc, trong đó có hai tác giả. Đây chỉ
là một hành động để nói lên lòng biết ơn thôi)
Từ 1975 là một sự tuột dốc thê thảm, nhìn thấy và nghe thấy, không
cần phải đắn đo suy nghĩ khi nói về nền âm nhạc ở nước CHXHCN Việt Nam
bây giờ. Không phải nhìn từ bên ngoài rồi chúng ta nói thánh nói tướng,
muốn nói gì thì nói, hay nói để… chống Cộng, nhưng phải nói rằng sự thật
là như vậy. Thử hỏi có ai nghe được hết một câu lời ca trong một bài
nhạc nào đó không? Có ai hiểu ca sĩ hát gì, nói gì trong bài hát đó
không? Còn nhạc thì nghe qua rồi – dù cho nghe 5 lần 7 lượt đi nữa – hỏi
có ai nhớ âm điệu ra sao không, do-ré-mi-fa-sol-la-si thế nào không?
Chúng tôi không nói quá lời đâu. Mở YouTube ra, bấm đại một bài nào đó ở
VN ngày nay, quý vị sẽ thấy ngay lời nói của chúng tôi không mảy may
quá đáng. Bấm đại bài của Cẩm Ly hát đi, thí dụ bài “Chồng xa”, chúng ta
sẽ nghe lời lẻ, văn chương quá buồn cười, trong một bài hát, nghe sao
giống như lời đối thọai trong một vở tuồng cải lương hạng bét:
“Dậy đi mua đồ nấu canh chua
Về cho ba mầy bữa cơm trưa…”
Về âm điệu, chúng tôi đố người Việt tự do ở hải ngoại nhớ một câu
nhạc nào đó, trong một bài hát A, B, C nào đó ở VN bây giờ. Tại sao
không nhớ được? Xin thưa vì đó không phải là âm điệu mà là những nốt
nhạc khác nhau, bỏ chung vào một cái túi và rút ra 5, 6, 7 hoặc 8 nốt,
rồi ráp lại cho thành một câu nhạc thôi. Trong khi đó, thử tình cờ lấy
một bài nào đó của miền Nam, trước 1975, như:
”Xuyên lá cành trăng lên lều vải
Lòng đất ấm thương tình đôi mươi…”
Hay như:
“Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn…”
Hoặc:
“Thượng đế hỡi có thấu cho VN này,
Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài…”
Chúng ta nghe sao mà tha thiết quá, du dương quá và dễ nhớ, dễ thuộc,
dễ thương quá, dù cho cả đời mình hay một trăm năm sau cũng khó quên
được.
Và xin quý vị thử bấm vào tựa một bài hát nào đó của CHXHCNVN ngày nay xem. Thí dụ như bài: “Xin anh đừng”
(đừng cái gì mới được chứ?) Và vô số bài nữa, như Giấc mơ không phải
của anh – Anh sẽ không níu kéo – Anh ba Khía – Ông xã bà xã – Khi cô đơn
em nhớ ai – Anh sai rồi – Quen một ngày cho vui – Em có thể làm bạn gái
anh không – Đừng buông tay anh…, nếu kể thêm, chắc chắn quý độc giả sẽ
bị nhức đầu. Tựa đề của một tác phẩm âm nhạc là như vậy đó sao? Chúng
tôi nghĩ tác giả là những trẻ con, chưa biết nói tiếng Việt hoặc là
người đã trưởng thành nhưng chưa biết viết tiếng Việt. Tựa đề của một
bài hát cũng phải nghe cho được chứ? “Xin anh đừng” rồi thôi, hết.
Về lời ca, mời quý vị nghe ca khúc “Giá như chưa từng quen”. Mới nghe
qua tên ca khúc, chúng ta liên tưởng ngay đến một bài hát khác của miền
Nam trước 1975, bài “Nếu ta đừng quen nhau”. Cùng một ý, một nội dung,
nhưng người nhạc sĩ miền Nam viết tựa là: “Nếu ta đừng quen nhau”. Bây
giờ, chúng ta hãy xem qua lời ca: Bài “Giá như chưa từng quen”:
“Giá như chưa từng quen, chưa quan tâm nhiều về nhau
Người yêu ơi, anh không thể nhớ mỗi lần cách xa…”
Còn bài “Nếu ta đừng quen nhau” có lời ca:
“Nếu ta đừng quen nhau, thì đời chưa vướng u sầu
Ngày xanh chưa nhuốm thương đau, màu hoa chưa úa phai màu…”
Chúng tôi để quý vị kết luận. Chúng tôi chỉ thấy “tội nghiệp” cho tác giả bài “Giá như chưa từng quen” mà thôi.
Nếu quý vị muốn nghe thêm nữa, thì đây:
“Vì ngày hôm qua anh đã thấy em ôm hôn một người…
Như muốn cào xé nát tan trái tim anh…”
Đây là lời ca của bài “Đừng làm anh đau” và xin nói thêm , chỉ có việc
“anh đau” này thôi mà có tới ba bài nhạc khác nhau, của 3 tác giả khác
nhau: “Đừng làm anh đau”, “Em khóc làm anh đau” và “Mưa làm anh đau”.
Đó, âm nhạc XHCNVN là như thế đó.
Về phần ca sĩ trình bày, mà người bên đó gọi là “thể hiện”, phải nói
một cách công bằng, vì là nơi đông dân số, gần 90 triệu người, thì làm
sao không có ca sĩ hát hay. Nhưng tiếc thay, có một số đông chỉ biết la,
biết hét, hét toáng lên, khiến người nghe không biết họ hát cái gì. Và
còn nữa, họ hay uốn éo ở chữ cuối câu (fioritures), có người còn ẹo ở
giữa câu, nghe rất khó chịu. Việc điểm fioritures này – tức là láy –
người viết nhạc chỉ dùng khi nào thật cần thiết thôi. Nếu tác giả không
có để thêm nốt fioritures thì ca sĩ đừng có tự động láy, tự động uốn éo,
tự động ỏng ẹo cho nó lả lướt, như vậy là lả lướt không đúng chỗ, nghe
không thể nào chịu được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước
giỏi. Cái uốn éo này xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng
ngọai quốc, và cũng tùy thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được,
chứ cứ uốn éo tự do, uốn éo lung tung, bất kể quân thần thì không hợp
với lời Việt chút nào.
Một phần việc ca sĩ VN trong nước bây giờ hát khó nghe, lý do cũng
tại cách viết lời ca của đa số những nhạc sĩ “lớp ba trường làng”, “trẻ
tuổi tài cao” của thời XHCN này: chỗ nốt cao thỉ để chữ dấu huyền hay
dấu hỏi, còn chỗ nốt thấp thì để chữ dấu sắc, hay dấu ngã. Viết lời ca
như thế thì chỉ có giết ca sĩ mà thôi, bởi ca sĩ không thể nào truyền
đạt cho thính giả hiểu được mình hát cái gì. Hát mà người nghe không
hiểu gì thì hát làm chi?
38 năm, một thời gian đủ để những “đỉnh cao trí tuệ” giết chết tất
cả, từ chữ nghĩa văn chương cho đến âm nhạc. Riêng về âm nhạc, họ đã vùi
dập bao nhiêu công lao của những người đi trước, trải qua bao thế hệ,
từ thời kỳ âm nhạc cải cách, đến nhạc mới hay tân nhạc, rồi nhạc vàng
(chữ của họ gọi để ám chỉ nhạc miền Nam từ 1954 đến 1975 mà họ đã cố
tiêu diệt nhưng không được) và nay là nhạc của thời XHCN, của thời:
“Dậy đi mua đồ nấu canh chua
Về cho ba mầy bữa cơm trưa”.
LÊ DINH
No comments:
Post a Comment