NGÀY TẾT TRONG TÂM THỨC
VIỆT
PHẠM TRẦN ANH
Từ
lâu, do chịu ảnh hưởng nặng nề của sự nô dịch văn hoá của gần 1 ngàn năm
nô lệ nên một số người trong chúng ta
vẫn nghĩ rằng Rồng là của Tàu và Tết Nguyên Đán cũng là tết của Tàu, chúng ta
ăn tết theo Tàu. Ngày nay, sự thật khách quan của lịch sử đã được phục hồi sau hàng ngàn năm bị che phủ
bởi lớp bụi của thời gian và nhất là do âm mưu xảo quyệt của đế quốc “Đại Hán”
xưa và đế quốc mới Trung Cộng ngày nay.
Ngay từ khi thành lập triều Thương của Trung Quốc, với tư tưởng chủ đạo
“Độc tôn Đại Hán”, tự cho mình là trung tâm của thiên hạ nên ngay từ triều
Thương, sau khi đánh đuổi nhà Hạ của tộc Việt đã chọn tên nước là Trung Quốc.
Trung Quốc là trung tâm của thiên hạ, triều đình Trung Quốc là “Thiên triều”
trong khi các nước khác là chư hầu, vua Trung Quốc là Thiên tử. Sau khi đã xâm
chiếm nhà Hạ và các nước Bách Việt, hết Thương rồi đến Chu đã xâm thực văn hóa,
tiếp thu tinh hoa của nền văn minh Việt rồi cải biến thành văn hóa Hán, tự cho
mình là văn minh “Hoa Hạ” còn tất cả các nước là man di mọi rợ.
Các
sử gia Hán tộc với quan niệm: “Đại nhất thống” tự cho là trung tâm thế giới,
cái rốn của nhân loại, là tộc người ưu việt. Chủ trương trước sau như một của
Đại Hán bành trướng là “Huệ thử Trung
Quốc, dĩ tuy tứ phương” nghĩa là: lấy
ân huệ Trung Quốc để yên định bốn phương. Đó là chủ trương bành trướng Đại
Hán “Dĩ Hạ biến Di” nghĩa là lấy cái cao thượng, tao nhã của Đại Hán để cải hoá
man di mọi rợ. Chính vì vậy trong mọi thời kỳ lịch sử, Hán tộc luôn luôn chủ
trương tiêu diệt văn tự các dân tộc khác, âm mưu nô dịch văn hoá rồi đồng hoá
các dân tộc. Lợi dụng Hán tự là văn tự duy nhất các sử gia Trung Quốc từ cổ đại
đến nay đã xuyên tạc, bóp méo sự thật, sửa đổi cho phù hợp với sử quan Đại Hán,
đánh đổ lòng tự hào dân tộc của các tộc người khác để dễ bề thống trị và đồng
hoá. Đó là chủ trương nhất quán, là bản chất bành trướng thâm độc của họ suốt
từ xưa tới nay.
Chính
vì thế, lịch sử Trung Quốc là lịch sử của những cuộc chiến tranh xâm lược bành
trướng, thôn tính và đồng hóa các dân tộc khác. Hán tộc thời Thương Chu vẫn
ngạo mạn, tự cho họ là trung tâm là Hoa Hạ (Trung Hoa) cao sang còn tất cả đều
là man di mọi rợ cả, nên Hán ngữ thường gọi tên
của những dân tộc xung quanh họ kèm theo bộ khuyển (chó), bộ trĩ (côn
trùng), bộ mã (ngựa). Trong khi những người họ gọi là man di mọi rợ đã thành
lập gần 40 quốc gia phồn thịnh và hùng mạnh ở đó vào thời Xuân Thu.
Truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc với Bố Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ
cũng như sách sử, di chỉ khảo cổ nhà Hạ đã minh chứng Rồng là vật tổ biểu trưng
của Việt tộc, một tộc người sống bằng nông nghiệp nên mới chọn Rồng là vật Tổ
phun nước xuống để cày cấy lúa, mưa thuận gió hòa. Chính sách sử cổ Trung Hoa và Trung Quốc Văn hóa Sử đều chép rằng: “Những thị tộc người Việt cổ tôn thờ vật tổ rồng,
vẽ hoa văn trên mình cắt tóc ngắn, trên cơ sở vẽ hoa văn vật tổ rồng”. Các
nhà khảo cổ khai quật được những di chỉ văn hóa Long Sơn (Sơn Tây) mà theo các
nhà nghiên cứu thì văn hóa Long Sơn – Sơn Tây có hình tượng rồng cũng trùng hợp
với truyền thuyết liên quan tới vật tổ rồng thời nhà Hạ của Việt tộc.
Đến thời Thương, triều đại đầu tiên của lịch
sử TQ chọn vật tổ là con hổ đến thời Hán lấy Rồng Việt làm vật Tổ. Lưu Bang
xuất thân là một viên Đình Trưởng ở miền sông Hoài, chịu ảnh hưởng sâu đậm của
nền văn hóa Việt nên sau khi đánh thắng Hạng Võ (Sở Việt) lên ngôi Hoàng Đế
triều Hán. Khi lên ngôi, Hán Cao Tổ cũng tế Li Vưu là thần chiến tranh, Hoàng
đế của người Hmong-Mien (Mèo Dao) là 1 chi tộc Việt và chọn Rồng làm vật tổ của
tộc Hán. Thời Hán Vũ Đế diệt “Bách gia Chư Tử-Tôn sùng Khổng giáo” trọng dụng Đổng Trọng Thư như một Khổng Tử triều Hán lập thuyết Thiên mệnh để
chính danh cho các vua Hán làm vua là do mệnh Trời, là con Trời (Thiên tử) nước
Hán là “thiên quốc” bốn phương đều là “Man, Di, Mọi Rợ), với Tam cương “Quân,
Sư, Phụ”, nước nhỏ phải “thờ” Thiên tử, Thiên triều, lấy Rồng là biểu tượng tối
cao, thân xác vua là long thể, mình rồng, giường vua nằm là long sàng, áo vua mặc
là long bào, mặt vua là long nhan, thuyền vua đi là thuyền rồng …
Ngoài việc lấy Rồng Việt làm vật tổ, Hán tộc còn xem cái tết Nguyên Đán là của Hán tộc. Từ thời cổ đại cho
tới Nhà Hạ vẫn lấy ngày mồng một tháng giêng là ngày Tết của người Việt cổ. Nhà
Hạ ăn tết nhằm cung dần, dựa theo nông lịch tức tiết đầu xuân lúc khởi đầu có
sấm.
Khi tộc Thương (Hán tộc) đánh đuổi Nhà Hạ
(Việt tộc) khỏi Hoa Bắc thì Hán tộc chọn ngày 1 tháng 12 âm lịch là Tết Nguyên
Đán, đến triều Chu chọn ngày 1 tháng 11 âm lịch, triều Tần chọn ngày 1 tháng 10
âm lịch cho cả Trung Quốc. Mãi đến thời Hán Vũ Đế chịu ảnh hưởng của văn hoá
Bách Việt phương Nam nên chọn lại ngày 1 tháng giêng là Tết Nguyên Đán.
Ngày nay, Trung Quốc lại chọn ngày 1 tháng
1 Dương lịch tức Tết Dương lịch của Tây phương làm ngày Tết nhưng dân gian Hoa
Nam và Hoa Đông là người gốc Việt cổ vẫn “Ăn Tết” vào ngày mồng 1 tháng giêng.
Truyền thống ăn Tết Nguyên Đán ảnh hưởng lên toàn
thể dân Trung Quốc gốc Hán nên thế giới hiểu lầm cho rằng ngày Tết Nguyên Đán
là của người Trung Quốc. Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi và chúng
ta, những người Việt Nam tự hào hãnh diện về nền văn minh Việt cổ. Trong khi Nhật
Bản, Trung Quốc đã chọn ngày Tết Dương Lịch, nhưng dân tộc Việt Nam
trước sau như một vẫn bảo lưu truyền thống “Nông lịch” của người Việt cổ lấy
ngày mồng một tháng giêng Âm lịch là ngày Tết Nguyên Đán còn gọi là Tết Ta để
phân biệt với Tết Dương lịch 1 tháng 1 Dương lịch là Tết Tây.
Trong
lễ hội dân gian, người Việt cổ xem trọng nhất là Tết. Tết là phong tục truyền
thống của người Việt từ xa xưa cho đến ngày nay. Dân gian vẫn thường phân biệt
là Tết ta và Tết Tây chứ không ai nói là tết Tàu vì chỉ dân tộc Việt Nam mới có
chữ “TẾT” mà thôi, Hán ngữ không có chữ tết nên Tết là của Việt Nam chứ không
phải của Tàu.
Thật
vậy, trong Kinh Lễ viết Tế-Sạ # Tết mà Khổng Tử, người thầy muôn đời của người
Trung Quốc đã giải thích với học trò:"Ta
không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời
Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên
cho ngày đó là "Tế-Sạ". Điều này chứng tỏ rằng người Trung Quốc
không có tết và Kinh Lễ là của người Việt cổ nên tên gọi tết cổ của người Thái
là chi Âu Việt trong Bách Việt cũng gọi Tết là Thê-Sa.
Tết là ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp
miền Đông Nam Á. Ngày nay, các công trình nghiên cứu đã xác định cư dân Đông
Nam Á cùng chung chỉ số sọ, cùng một mã di truyền DNA, nên là những chi tộc
Việt trong Bách Việt. Chính vì vậy, tất cả đều ăn tết, chữ tết cùng một nguồn
gốc với chữ Tết của Việt tộc. Đồng bào Nùng cũng đọc là tết (nèn tết=năm tết),
đồng bào Mường cũng ăn “Thêt”= ăn tết như đồng bào Việt, đồng bào Thái thì có
lễ mừng năm mới gọi là Thêts. Thêts khal là mùa tết, những ngày tết, khal text
là ngày tết. Đồng bào Chàm cũng có tết mà họ gọi là “Tít” vào lễ tháng năm của
lịch Chàm cổ, “băng tít” là ăn tết, kTêh là lễ hội lớn nhất trong năm của người
Chàm. Người Mon cũng ăn tết mà họ gọi là Ktêk. Người Khmer cũng có lễ hội
“Chêtr” là Tết mừng tháng 5 theo cổ lịch Khmer là tháng gió mùa bắt đầu thổi
ngược lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông Nam Á tùy theo nơi, từ cuối tháng tư
đến cuối tháng năm. Ấn Độ cũng có chữ “Chetr” để chỉ tên tháng tư và tháng năm
là 2 tháng giao mùa từ mùa nắng sang mùa mưa trong lịch Ấn Độ cổ. Đặc biệt ở
Népal cũng ăn tết trong “Lễ đầu năm” cổ truyền của người Népal và người Munda
cũng có lễ ăn mừng mùa mưa đến gọi là “Teej”* như các quốc gia nông nghiệp
trong Bách Việt.
Đặc biệt, truyền thuyết dưới dạng truyện cổ tích Việt Nam về lễ Tết lưu
truyền trong dân gian từ bao đời nay gắn liền với ý niệm cha Trời, mẹ Đất. Ý
niệm về Đất Trời được thể hiện qua hình tượng Bánh Chưng bánh dày ngay từ thời
vua Hùng thứ tám (Sách sử xưa viết là vua Hùng thứ sáu vì không kể Kinh Dương
Vương và Lạc Long Quân, chỉ tính từ vua Hùng thứ nhất. Thực ra phải nói là vua
Hùng thứ tám mới đúng theo quốc phổ ghi trong Bách Việt Ngọc Phả Truyền Thư và
phù hợp với niên đại lịch sử.
Truyện
kể rằng, vua Hùng thứ tám sau khì nhờ Phù Đổng Thiên Vương “Cậu bé nhà Trời”
phá tan giặc Ân đã chọn người con thứ 9 là Lang Liêu để truyền ngôi. Tương
truyền trong khi 21 người anh em đi tìm sơn hào hải vị để đến tết dâng lên vua
cha cúng tiên vương cho tròn đạo hiếu thì Lang Liêu do mẹ mất sớm, gia đình
nghèo nên chỉ biết dâng lên vua cha cặp bánh chưng hình vuông và bánh dầy hình
tròn. Lang Liêu là người con hiếu thảo, biết thương người đang buồn rầu lo nghĩ
rồi tủi thân vì mẹ mất sớm nên không ai phụ giúp nên “Thần nhân” hiện ra mách
bảo Lang Liêu rằng: “Trong trời đất,
không vật gì quý hơn gạo vì gạo là để nuôi dân, người ta ăn mãi không bao giờ
chán. Nếu con lấy gạo nếp nấu sôi lên rồi đem quệt cho thật nhuyễn, nặn thành
hình tròn để tượng trưng cho trời gọi là bánh dầy. Lấy gạo nếp trắng tinh đem
vo sạch, cho nhân thịt và đậu xanh vào giữa rồi lấy lá dong xanh gói rồi đem
nấu chín gọi là bánh chưng”.
Vua
Hùng thấy Lang Liêu là người biết tri ân Trời Đất, ông bà Tiên tổ, lại biết
thương yêu đồng bào nên chọn chàng lên ngôi kế vị vua cha. Từ đó, dân gian Việt
có tập tục là đến ngày lễ tết thì làm bánh dầy cúng trời đất, gói bánh chưng để
cúng ông bà tiên tổ. Ý niệm vuông tròn biểu trưng cho trời đất và sự hoàn
thiện, tuyệt mỹ nên dân gian thường chúc nhau “Mẹ tròn con vuông” mỗi khi sinh
đẻ. Tinh hoa của minh triết Việt chỉ ra
rằng cuộc sống phải hội đủ 2 yếu tố Âm dương mới đầy đủ viên mãn. Đó chính là
“Đạo” vì phải có cả âm dương mới là đạo. Đạo Trời, đạo Đất và cũng chính là đạo
người (nhất âm nhất dương chi vị đạo).
Trong văn học thường viết Tết gắn liền với chữ Nguyên Đán là Tết Nguyên
Đán. Truyền thuyết xa xưa kể lại rằng Đế Chuyên Húc, ông vua Việt cổ thời cổ
đại gọi tháng giêng là NGUYÊN, gọi mồng một là ĐÁN rồi ghép lại là Nguyên Đán
tức mồng một tháng giêng. Tầm nguyên ngữ nghĩa của hai chữ Nguyên Đán sẽ cho ta
thấy rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của Tết Nguyên Đán. Nguyên là mới bắt
đầu, Đán là một chữ tượng hình, ở bên trên là chữ nhật chỉ mặt trời, bên dưới
là chữ nhất thay cho mặt bằng phẳng khiến chúng ta liên tưởng mặt trời từ từ
lên cao, tượng trưng cho một ngày mới bắt đầu.
Nguyên Đán là ngày đầu năm đầu tháng giêng Âm lịch. Do đó, Tết Nguyên
Đán là ngày đầu tiên của tiết đầu của một năm mới.
Đối với người Việt, cái Tết có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống. Thật
vậy, ngoài cái giờ phút thiêng liêng chuyển đổi của đất trời qua “Giao thừa”
sang năm mới, mọi người trong gia đình mỗi người đều mang một tâm trạng riêng,
nhớ tới những người thân đã khuất còn hiển hiện quanh đây, trong không khí ấm
cúng của gia đình đêm ba mươi tết. Trên bàn thờ với đĩa ngũ quả khói hương nghi
ngút, đan quyện linh hồn những người đã khuất với kẻ còn sống đang tưởng nhớ
tới họ. Tết nhất cũng là dịp gia đình đoàn tụ xum vầy, cháu con dù đi làm ăn xa
đến đâu nếu có phương tiện vẫn trở về mái ấm gia đình, để hàn huyên tâm sự chia
xẻ những khó khăn trong cuộc sống.
Hàng năm cứ vào những ngày cuối tháng chạp (tháng 12 ÂL), ai cũng nao
nao trong lòng về ngày Tết sắp đến. Qua ngày hai mươi là Tết đến nơi rồi, không
biết năm nay những người thân xa quê hương ai sẽ về đón Tết, ăn Tết với gia
đình? Để chuẩn bị vui đón cái tết đúng ý nghĩa của nó, gia đình nào cũng phải
trang hoàng nhà cửa, sửa soạn bàn thờ Gia Tiên với đĩa “Ngũ quả” gồm 5 loại
trái cây là trái sung, trái mãng cầu, trái dừa, đu đủ, xoài nói lên ước vọng
tâm tư dân dã miền Nam. Cầu (mãng cầu)
trời khấn phật cho vừa (dừa) đủ (đu đủ) xài (Xoài). Người Việt miền Bắc thì trong
đĩa ngũ quả phải có một chùm quả Sung ước mong sự sung túc cho gia đình.
“ Mỗi
năm hoa Đào nở,
lại
thấy ông Đồ già ..
Nghiên
mực tàu giấy đỏ,
bên
phố đông người qua…
Ngày xưa dân gian thường nhờ ông Đồ viết đôi câu đối để chúc tụng, cầu
mong tài lộc hạnh phúc theo ý của mỗi người: “Hoa tay thảo những nét, Như Phượng múa Rồng bay”. Năm nay “Đào lại
nở” nhưng ít thấy ông Đồ xưa nên chúng ta phải nhờ mấy “ông Thư pháp trẻ” viết
vài chữ, vài câu gọi là mừng xuân. Giới trẻ thì trước tết đã rủ nhau đến hiệu
sách chọn mua thiệp Xuân để gửi chúc tết đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp với
những lời chúc mừng nhân dịp Xuân về.
Ngày 23 tháng chạp là ngày ông Táo lên trời. Đêm giao thừa 30 tháng
chạp, ông Táo lại trở về trần gian với gia đình vào thời điểm “năm cùng tháng
tận” mang lại hy vọng cho gia chủ sang năm làm ăn may mắn phát tài phát lộc.
Vào dịp cuối năm, gia đình nào cũng lo sơn quét nhà của đón Tết nhưng cũng
không quên ra thăm viếng sửa sang sơn quét những ngôi mộ của người thân, đó
chính là lúc tâm hồn người ta chùng xuống chạnh nhớ ông bà cha mẹ, nhớ những
ngày tháng đã qua trong cuộc đời trong tâm thức mỗi con người. Lễ Tết còn thể
hiện tình bà con nghĩa làng nước, gia đình này bàn với gia đình kia mổ chung
một con heo, nấu chung nồi bánh chưng, bánh tét để được ngồi bên nhau canh nồi
bánh kể chuyện râm ran cả một quá khứ tuổi thơ hiện về ngập tràn tâm tưởng.
Trước Tết nhà nào cũng lo đi sắm Tết, mua cho con trẻ bộ áo mới để mặc
tết. Đúng giờ Giao thừa, gia đình đứng trước bàn thờ gia tiên để khấn vái ông
bà Tiên Tổ phù hộ cho mọi người. Trong không khí trang trọng đặc biệt của ngày
Tết, trên bàn thờ khói hương nghi ngút, con cháu lần lượt chúc tuổi các bậc
trưởng thượng ông bà cha mẹ được sống lâu trăm tuổi, rồi ông bà cha mẹ lại mừng
tuổi cho con cháu mau khôn lớn, học hành thành đạt … Sau đó, gia đình anh chị
em rủ nhau đến chùa lễ Phật hoặc đến nhà thờ nhưng không quên tập tục dân gian
xưa là bẻ một cành cây có lá non gọi là “Hái lộc” mới đem về nhà cho sang năm
gia đình được nhiều may mắn, tài lộc.
Ý
nghĩa cao đẹp nhất của ngày Tết truyền thống Việt là “Tạ Ơn”, đạo lý làm người
của dân tộc Việt Nam. Thật vậy, Giờ phút “Giao Thừa” chuyển đổi từ năm cũ sang
năm mới, dân gian Việt Nam nhà nào cũng bày một mâm hoa quả trước sân nhà để
cúng Trời Đất, cảm tạ Trời Đất đã ban sự sống cho con người, cảm tạ ông bà Tiên
Tổ đã sinh thành ra mình để có được ngày hôm nay. Truyền thống dân gian Việt là
“Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy” đã nói lên đạo hiếu của bổn phận làm con
và truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của người Việt. Ngày mồng một tết, sau khi
chúc tuổi thọ cha mẹ biểu trưng lòng biết ơn cha mẹ đã sinh thành nuôi dưỡng
dạy dỗ nên người, dân gian còn phải đến chúc tết các bậc trưởng thượng trong
dòng họ rồi chúc tết bà con cô bác, hàng xóm láng giềng.
Trong
ba ngày tết, đi đến đâu, vào nhà nào cũng được tiếp đón linh đình nồng hậu hơn
mọi ngày với nay đủ món ngon vật lạ ngày tết. Ngày mồng 3 tết đặc biệt dành
riêng để đến nhà thày cô chúc tết với món quà biểu tỏ lòng biết ơn công lao
người đã dạy dỗ việc học hành trên ghế nhà trường. Tất cả đã nói lên truyền
thống cao đẹp tràn đầy tính nhân bản, thấm đậm nét nhân văn của đạo làm người
của một dân tộc có gần năm ngàn năm văn hiến.
Ngoài ý nghĩa tâm linh của ngày tết, dân gian Việt thiên về cuộc sống
tình cảm nên xem ngày tết như là một dịp để quên đi những vất vả gian truân của
cuộc sống, quên đi những buồn phiền hiềm khích năm cũ đẻ vui vẻ đón tết, ăn
tết. Không một ai trong chúng ta lại không nhớ đến nỗi vui mừng khi nhận những
bao tiền “Mừng Tuổi” “lì xì” màu đỏ rực thời còn nhỏ dại của người thân mừng
tuổi cho những đồng tiền mới tinh.
Người
Việt Nam chúng ta không ai có thể quên được không khí tưng bừng nao nức của
ngày tết với câu đối đỏ, những bức tranh tết đỏ rực, những câu đối chúc tụng,
những tràng pháo đỏ treo trên cây nêu hoặc trên cao để đúng giờ giao thừa nổ
liên hồi để xua đuổi tà ma nên đêm ba mươi dân gian còn gọi là “đêm trừ tịch”.
Tiếng
pháo nổ dòn giã vang rền, có nơi còn múa lân để chúc mừng gia chủ khiến lòng
người ai ai cũng hoan mừng chờ đón giây phút thiêng liêng trọng đại đó để “Tống
cựu nghinh tân”, đạp cái xấu xa xui xẻo năm cũ để đón mừng một năm mới tràn đầy
hy vọng. Làm sao có thể quên được những đôi môi mọng đỏ của các cô gái khi cắn
hạt dưa. Cái thú ngồi cắn hạt dưa đến rát cả lưỡi mà vẫn cắn không biết chán,
những tiếng cười ròn rã, những câu truyện râm ran suốt cả đêm. Tết nhất với đủ
mọi món ăn nào là thịt mỡ dưa hành, giò chả rồi bánh chưng, bánh tét tha hồ mà
ăn đến ngán ngẫm ê hề.
Nói đến Tết không ai không nhớ đến bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên vào
những ngày cuối năm với cái tết dân gian thấm đậm truyền thống Việt: “Nêu cao, pháo đỏ bánh chưng xanh, thịt mỡ
dưa hành …” của không khí ngày tết ở làng quê: “Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột. Loẹt loè trên vách bức tranh gà
..! Bên cạnh những tấm lòng chân thật còn có những lời chúc “Đầu môi-chót lưỡi”
của những phường giả dối nên thi sĩ Tú Xương đã mỉa mai cay đắng:
“ Lẳng
lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc
nhau trăm tuổi bạc đầu râu …!!!”
Mỗi lứa tuổi đón tết một cách khác, trẻ em thì vui mừng mong đợi ngày
tết với những ước mơ đơn giản đời thường với bao tiền lì xì mừng tuổi, bộ quần
áo mới và bánh thịt phủ phê năm ba ngày tết. Tuổi thanh xuân thì ngao du đây đó
xa nhà, có người lo làm ăn sinh kế nên phải xa nhà tha hương nơi đất khách quê
người, chợt một lúc nào đó cảm thấy hụt hẫng thiếu vắng một cái gì khiến tâm tư
lắng đọng nhất là những chiều cuối năm nắng hanh vàng vọt bên thềm khiến lòng
ta xao xuyến:
Chiều
cuối năm gợi nhớ,
Trở về
mái nhà xưa …
Ngập
tràn bao kỷ niệm,
Thương
biết mấy cho vừa ..!
Chiều
cuối năm gợi nhớ,
Một
thoáng buồn xa đưa …
Những
người thân thương cũ,
Chờ ai
đón Giao thừa ..?!
( Phạm
Trần Anh)
Thi sĩ Thế Lữ cũng đã trải qua những ngày
tết xa nhà nơi gác trọ mới cảm thấy một nỗi buồn thấm thía:
Hôm
nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong
lúc gần xa pháo nổ ran ...
Rũ áo
phong sương trên gác trọ,
Lặng
nhìn thiên hạ đón xuân sang ..!
Với tuổi già thì những ngày cuối năm biết bao nhiêu buồn vui cuộc sống
đủ để trầm ngâm về thế thái nhân tình, về cõi nhân sinh riêng mình chứng
nghiệm! Nhìn bàn thờ khói hương nghi ngút, nhớ những người thân đã qua đời,
những bạn bè không còn nữa, chậm rãi vuốt chòm râu bạc nhấp một hớp rượu rồi
khề khà ngâm vịnh:
“ Nén
hương khói toả thờ Tiên Tổ,
Chén
rượu ngâm nga chúc bạn bè ...!”
Vào tuổi “Thất thập cổ lai hi”, với cái nhìn thấu suốt toàn diện cuộc
đời sau bao năm thể nghiệm cuộc sống để cuối đời nhận chân được qui luật muôn
đời của con tạo xoay vần, của sinh lão bệnh tử nên bình thản chấp nhận tuổi già
xồng xộc đến, chờ đón cái chết một cách ung dung tự tại như bài kệ “Cáo tật Thị
chúng” của thiền sư Mãn Giác:
Xuân khứ bách hoa
lạc,
Xuân đáo bách hoa
khai ..
Sự trục nhãn tiền
quá,
Lão tòng đầu thượng
lai ..
Mạc vị Xuân tàn hoa
lạc tận,
Đình tiền tạc dạ
nhất chi mai ..!
Xuân
qua trăm hoa rụng,
Xuân
đến trăm hoa tươi ..
Việc
đời qua trước mắt,
Trên
đầu già đến rồi …
Đừng
tưởng Xuân tàn hoa rụng mãi,
Đêm
qua sân trước một cành mai ..!
PHẠM TRẦN ANH
* “Từ điển Đồng Nguyên Tiếng Việt-Đông Nam
Á” của bác sĩ Nguyễn Hy Vọng.
No comments:
Post a Comment