Sunday, February 8, 2015

TẬN CÙNG ĐỊA NGỤC: HAI MƯƠI SÁU NĂM LƯU ĐẦY của TT Thích Thiện Minh Người Tù Lương Tâm của Việt Nam với 2 bản án chung thân, 26 năm tù ngục…

 

CHƯƠNG II
                                                    BIẾN CỐ 30 THÁNG 4 …                                                                                                         NGÀY MIỀN NAM TỦI NHỤC ĐỘNG NÃO KẺ TU HÀNH
 
  

Buổi họp thành lập Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn giáo Việt Nam tại Sài Gòn gồm từ trái qua TT Thích Thiện Minh, HT Thích Huệ Đăng, sử gia Phạm Trần Anh, TT Thích Không Tánh, TT Thích Chơn Tâm và tại nhà Cư sĩ Chủ Tịch Ủy Ban Bảo vệ Phật Giáo Hòa Hảo Trần Hữu Duyên tháng 7 năm 2006.

       Thế rồi, cơn “Ách vận đại biến” của đất nước bỗng chốc xảy đến, ngày 30 tháng 4năm 1975, ngày quốc hận "Hắc ám nhật tử" đổ ập xuống quê hương này bất ngờ như một cơn ác mộng hãi hùng. Tôi vô cùng trăn trở và ngỡ ngàng trước biến cố bất an cho cuộc đời, xã hội, con người, quê hương, đất nước, tôn giáo… Tất cả bị đảo lộn 100%, làm thay đổi xáo trộn hoàn toàn cuộc sống của người dân. Những nỗi đau thương tang tóc đã xảy đến cho bao gia đình, thật vô cùng “thiên tân vạn khổ”, nào là những cảnh chết chóc tù đày, chùa chiền, nhà thờ, Thánh thất, tôn miếu bị đập phá hoặc bị sung công, đất đai tài sản của dân chúng bị tịch thu, nhà tù mọc lên như nấm, hàng loạt bản án tử hình dành cho những người yêu nước chống cộng khắp toàn quốc.      Các Chư Tôn Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, các Linh mục, Mục sư và Chức sắc các tôn giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo và Bửu Sơn Kỳ Hương bị cô lập, quản thúc, quản chế, tù đày. Các bà mẹ góa, trẻ mồ côi, người tàn tật, kẻ nghèo đói, người hành khất phải sống lang thang nơi đầu đường xó chợ, ở dưới gầm cầu, ở xa cảng, ngoài hiên hàng, hiên quán và sống trong cảnh màn trời chiếu đất trông rất thảm thương. Sự thật tôi không thể nào tưởng tượng nổi.  Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xây dựng chính quyền bằng lưỡi lê, họng súng và cai trị nhân dân bằng chính sách độc tài, phi dân chủ và vô nhân đạo bởi Cộng sản Việt Nam đã: Biến Việt Nam thành tiền đồn đẫm máuLàm cả đời lẫn đạo lắm điêu linhTiếng chuông chùa đã vắng bặt kệ kinhMiếu thánh thất tiếng âm thinh tịch lặng ..! Chuông giáo đường đã từ từ hoang vắngChùa, nhà thờ vườn cảnh trống người thưaNgười thay trâu kéo cộ để cày bừaBao cơ khổ sáng trưa tới tối!

Ăn cháo độn cùng củ khoai củ chuối

Biết bao người bị chết đói thảm thương

Kẻ ăn xin người hành khất vạn nẽo đường

Phải trú ẩn ở nhà thương, bến cảng!


Ở dưới gầm cầu ở bên vỉa hè hiên quán

Cảnh màn trời chiếu đất ngán ngao thay

Quản lý dân bao sự nghiệp tiền tài

Bao vàng bạc bao lầu đài dinh thự!


Kẻ tiếc của đã phải toan tự tử

Hoặc làm người sống xa xứ lìa quê

Chốn núi rừng đồng hoang vắng thảm thê

Kinh tế mới ôi vạn bề thống khổ!


Cây xa cội nước xa nguồn, chim xa tổ

Vợ xa chồng, em lại phải lìa anh

Con xa cha xa mẹ kẻ đầu gành

Người cuối bể ôi cam đành ly cách!


Bởi nhớ con cha mẹ già bạc tóc

Vợ thương chồng tay ấp đứa con thơ

Sức mỏi mòn bởi tháng đợi năm chờ


Còn đàn trẻ bơ vơ côi cút!


Bao góa phụ khóc chồng thương tiếc

Trẻ sơ sinh chưa biết mặt cha


Chít khăn tang mí mắt ướt lệ nhòa

Ai gây cảnh phong ba nầy nhỉ!


Bởi Cộng Sản tham tàn ngạ quỷ

Dùng danh từ hoa mỹ bịp dân

Có những người theo Cộng Sản mấy mươi năm

Nay cuốn gói âm thầm sang nước khác! 

Bởi bấy lâu say mê lầm lạc

Theo Lê- Nin theo Các Mác Tam Vô

Thì hỏi ai sống nổi với Cộng Nô

Sống với Cộng như lập mồ chôn sẵn!


Họ lợi dụng danh từ cách mạng


Và danh từ vô sản phi nhân 

Để tóm thâu vơ vét của nhân dân 

Thật chẳng khác là đảng băng ăn cướp!


Đồ phi nghĩa một đoàn quân ô hợp 

Nói thương dân càng bóc lột dã man 

Từ thành đô, tỉnh, huyện đến thôn làng 

Quân Cộng Sản ban hành nhiều luật lệ!


Buộc nhân dân phải vào tập thể

Ban nhiều điều quy chế gắt gao 

Lúa đo bồ còn thuế nặng sưu cao 

Dùng từ ngữ thanh tao đảm phụ!


Bắt đi lính cho là nghĩa vụ 

Bao nấm mồ vô chủ xứ người 

Mẹ vắng con nên môi thiếu nở nụ cười 

Chồng lìa vợ trách trời cao sao oan nghiệt!


Ai gây cảnh sanh ly tử biệt

Ai gây nên dân tộc Việt lầm than? 

Ai hô hào xây dựng cảnh thiên đàng? 

Và ai đã biến trần gian thành địa ngục?!

 Hàng triệu người rời quê hương lũ lượt

Xa gia đình để cất bước muôn phương 

Kẻ bị cướp tàu, người bị nhốt ở khám đường 

Kẻ bị chìm đắm nơi trùng dương sóng cả! 


Sống gửi thân nơi đất người xứ lạ 

Xa gia đình mồ mả tổ tiên 

Nhớ cố hương lòng khoắc khoải nỗi ưu phiền 

Bởi Cộng Sản dùng cường quyền man rợ!


Bao nam nữ lỡ duyên lỡ nợ 

Bao trẻ thơ bị dang dở học hành 

Bao gia đình bao sự nghiệp tan tành 

Bỏ tất cả để trở thành tay trắng!


Sân đại học ngày xưa thơ mộng lắm 

Đến bây giờ cảnh buồn vắng sầu vơi 

Bao thư sinh đi viễn xứ xa vời 

Gió thu thổi lá rơi buồn rũ rượi!


Công viên vắng như nhớ nhung chờ đợi 

Phượng lẻ sầu không phơi phới trỗ thêm hoa 

Cô nữ sinh áo dài trắng thướt tha 

Nay cắt ngắn áo bà ba lo cuộc sống!


      Bao nỗi tủi nhục khổ đau của nhân dân đã đập vào mắt, đã ăn sâu vào não tôi, những hoàn cảnh thương đau từ cá nhân cho đến gia đình của đồng bào trong thời điểm này, chỉ còn biết đem đến cửa thiền môn, hoặc nhà thờ để giải bày tâm sự với những thầy tu mà thôi! Đây là cộng nghiệp (y báo), một sự khổ đau chung vì vận nước đang gặp thời điên đảo và không phải một, mà hàng trăm, hàng ngàn những nỗi khổ khác nhau của mọi người đã đem đến cửa chùa trút hết cho tôi. Tôi không hiểu, tại sao tôi phải thọ nhận một niềm đau khổng lồ như thế này! Bên cạnh, còn có nỗi bất công do những kẻ gian đảng đang mưu toan tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà tôi là một thành viên, dầu chỉ là một thành viên thuộc cấp, cũng như những nguy cơ của tất cả các tôn giáo khác, tức nỗi đau của “ Pháp nạn”. Thế là nhà tu này đã động não, động tâm rồi!     

 Ngồi mà suy niệm, chắc bản thân tôi cũng có quá nhiều nghiệp chướng từ trong quá khứ chăng, cho nên tôi không thể ngồi điềm nhiên tọa thị, để cầu xin hai chữ bình an.  Tôi cảm thấy trong lòng sôi sục, có điều gì thúc giục mình như phải có trách nhiệm với những người bị hoạn nạn, với những nạn nhân của chế độ Cộng sản bạo quyền. Tôi đồng cảm và thương xót họ như chính bản thân mình. Tôi suy nghĩ kẻ nào làm đau khổ cho đồng bào, hình như cũng đang làm đau khổ cho chính bản thân tôi. Từ đó, tôi có một cái nhìn rất khắt khe, gần như căm giận cái ác, tôi muốn đẩy lùi cái ác, góp phần phát huy cái thiện. Tôi cũng tự lượng sức mình tài hèn, đức bạc, trí tuệ kém cỏi. Nhưng, lòng lại nhất quyết muốn làm cái gì đó để cứu nguy cho đồng bào, cứu đất nước mong sớm thoát qua khỏi vòng cơ hiểm và tôi bắt đầu có sự nhận xét, đánh giá một cách trung thực khác quan về sự lộng hành của chế độ đang cầm cờ phất phới trong tay.      

Nhận thức rõ bản chất của chế độ cộng sản Việt Nam là phi nhân tính, phi tôn giáo, phi tổ quốc, phi dân tộc, phi nhân quyền và phi dân chủ. Tôi nảy ra ý định sẵn sàng tham gia cộng sự một cách tích cực với các tổ chức chính trị và thiết lập mối tương liên với các tôn giáo có cùng quan điểm để đấu tranh giải ách Cộng Sản, giải cứu đất nước và giải trừ pháp nạn, đòi phục hoạt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo cho người dân. Lúc bấy giờ đầu óc tôi suy nghĩ miên man, cho một cuộc dấn thân để góp phần làm tròn trách nhiệm của người dân trước những lâm nguy của đất nước. Có những lúc tôi lại liên tưởng đến Đức Bổn Sư Thích Ca từ phụ, Ngài là một đấng Toàn Giác, là bậc Đại Đạo Sư của nhân loại, Ngài là bậc Đại Y Vương, tinh thông y lý tuyệt vời để trị tâm bệnh cho loài người. Ngài là một vị có ân đức vô vàn của chúng sinh, là người vô tận vô biên của thế giới. Ngài cũng là một nhà đại cách mạng đứng đầu trang lịch sử cách mạng, làm cho lịch sử sống mãi muôn đời không bao giờ ai quên được.


     Ngài sinh ra tại thế gian, thấy cảnh khổ của thế gian, Ngài xuất gia cũng tại thế gian, thành đạo tại thế gian và nhập niết bàn cũng ở cõi nhân gian này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người sáng lập ra đạo Phật, đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đạo Phật ra đời cách đây trên 2500 năm nhưng, đã có mặt trên quê hương Việt Nam ngót gần 2000 năm lịch sử truyền thừa. Đạo Phật khai sáng bởi con người, để phụng sự cho con người. Đạo Phật lấy con người làm gốc, con người là mê, Đức Phật là giác, cả hai trong vòng đối đãi. Tinh thần nhân bản của Đạo Phật được thể hiện qua giáo lý bình đẳng Phật tánh, bình đẳng tánh trí cũng như hành động của những người con Phật, bao gồm các hàng phật tử xuất gia và tại gia. Đạo Phật chủ trương rằng con người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bản thân mình và xã hội mình, con người có thể thay đổi được bản thân và hoàn cảnh xã hội theo ý muốn, có thể hoán cải những điều kiện của cuộc sống, của những gì đã, đang và sẽ xảy ra.  Tất cả đều có nguyên nhân và kết quả, do nghiệp tạo thành của chính con người tạo ra và cũng chính con người mới có thể chuyển được nghiệp ấy …      

Con người có thể chuyển hóa làm đổi thay tất cả và tôi chợt nhớ lại lời dạy của Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh, Ngài là Y Chỉ sư của tôi, nguyên Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Sóc Trăng có một dịp ghé chùa thăm tôi. Hoà Thượng bảo tôi rằng: “Người xuất gia phải lấy mục đích hoằng pháp là việc nhà, lấy lợi sinh làm sự nghiệp, ông hiện tại đang làm trụ trì, ông đã từng tham dự mấy khoá huấn luyện trụ trì chắc ông cũng hiểu, không phải trụ là ở, trì là giữ, tức là ở giữ chùa, làm công việc một ông từ cho Phật gọi là trụ trì đâu! Mà trụ trì tức là Trụ Pháp vương gia trì Như Lai Tạng". Ông cũng nên nhớ rằng " Sinh mạng của người xuất gia là Huệ mạng, nên cơm ăn là Pháp Vị Đề Hồ, áo mặc là Nhẫn nhục nhu hoà, nhà ở là tâm đại từ bi … ông nên nhớ là luôn luôn sinh hoạt phải cho hợp với Chánh pháp bởi vì nếu sai Chánh pháp thì tâm ta khó mà giữ được Chánh định, tức sẽ bị trần cảnh lôi cuốn, trần cảnh lôi cuốn thì pháp thân huệ mạng không còn ...”.


      Tôi luôn luôn ghi nhớ lời thầy giáo huấn. Thế nhưng, như tôi đã nói ở trên, vì chưa dứt sạch nghiệp chướng, cùng phiền não, vì phước mỏng nghiệp dầy, hoặc kiếp trước thiếu tu thiện pháp, gây nhiều ác nghiệp nên phải thọ khổ kiếp này. Đây cũng là oan gia nghiệp báo chăng ? Nên tôi không tránh được ác nạn cho bản thân, đành phải rời khỏi mái chùa bị mang án khổ sai lưu đày biệt xứ. Tôi không kịp từ giã quý Chư tôn Đức, Pháp quyến và quý Phật tử xa gần, ân Tam bảo, ân Đàn na tín thí tôi chưa đền trả được!  Phải chăng sự dấn thân để bị tù đày này, cũng là một phần đáp ân Tổ quốc, một trong tứ ân như lời phật dạy?.


      Theo tôi, tất cả mọi thử thách đối với bản thân mình chỉ là do nghiệp duyên khảo đảo đối với kẻ tu hành mà thôi! Vì gặp sự chướng ngại, sự tác nghịch sẽ là sự tác thành. Tôi còn nhớ “Luận Bảo Vương Tam Muội có giảng dạy”: “Phật Đà thiết lập Chánh Pháp, lấy bệnh khổ làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm thành công, lấy gai góc làm giải thoát, lấy ma quân làm đạo bạn, lấy khó khăn làm sự tác thành, lấy bạn tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy kẻ chống nghịch làm người giao du, lấy sự thi ân như đôi dép bỏ, lấy xả lợi làm vinh hoa lấy oan ức làm đà tiến thủ. Thế nên ở trong chướng ngại mà vượt qua tất cả”. Tôi đã ở ròng rã suốt 26 năm triền miên chịu cảnh trừng khảo trong nhà tù Cộng Sản hoặc do nghịch khảo của nhân duyên quả báo nên luôn phải kham nhẫn và không bao giờ thất thối đạo tâm, nếu nghĩ xa hơn có lẽ do túc thế, nghiệp căn đời trước tôi thường hay giam cầm, đánh đập, tra tấn trói buộc chúng sinh, nên nay phải chịu quả báo của thời kim thế. Thôi hãy cứ cho là như vậy...


 SỰ PHỈ BÁNG, KHỦNG BỐ VÀ ĐÀN ÁP TÔN GIÁO  CỦA CỘNG SẢN ĐỊA PHƯƠNG      

Tôi còn nhớ những sự việc sách nhiễu, uy hiếp của chính quyền Cộng Sản địa phương đối với bản thân và cơ sở thờ tự của tôi trong những tháng năm đầu của ngày quốc nạn khi những tên vô đạo, vô thần từ trong bưng biền lộ hình xuất hiện tại tỉnh Bạc Liêu. Tôi xin tóm lược một vài sự kiện như sau: Chỉ sau ngày 30-04-1975 vài hôm thôi, vào lúc khoảng 4 giờ chiều. Tôi trông thấy có một người trung niên, mặc bộ quần áo ni lông dù, màu xanh lá cây đã bạc màu và đội chiếc nón tai bèo, anh ta mang theo bên mình một khẩu súng ngắn đi xăm xăm vào cổng chùa. Gặp tôi anh ta tự giới thiệu mình tên “Hai Thổ” là xã đội trưởng, xã Châu Hưng, trông anh dáng vẻ hậm hực, thái độ bướng bỉnh, lời lẽ ngang tàng, cử chỉ vô lễ, nói năng kém học thức. Tôi không muốn nói là anh ta quá dốt, anh ta nhìn thấy lá cờ Phật Giáo năm màu đang tung bay trên cột cờ và nói: “Giờ này mà nhà chùa còn treo lá cờ của thực dân Pháp nữa à! bọn đế quốc Mỹ và ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn đã cuốn xéo bỏ chạy rồi, tại sao Pháp còn ở đây ! thật là hết sức phản động, có lẽ cần phải cho đi học tập dài hạn mới được”.


      Anh ta ngang nhiên bước chân vào chùa với cả đôi dép râu còn dính bùn đất và chiếc nón tai bèo anh vẫn đội trên đầu một cách tự nhiên của ông quan "Kách mệnh". Anh nhìn tượng Phật sơ sinh của đức Thích Ca Mâu Ni. Rồi chỉ tay, miệng mỉm cười khinh khỉnh nói: “Thằng Phật nhỏ xíu này nó không có công làm cách mạng để đánh đuổi đế quốc Mỹ, tại sao lại phải thờ nó, nó ngồi một chỗ, để chờ người ta đem quà lại dâng cúng. Nó là thành phần thuộc giai cấp bóc lột mà!”. Sau đó anh ta bước lên bậc thềm Chánh Điện lấy tay sờ vào tượng Phật Thích Ca Mâu Ni và nói “Thằng Phật nầy ăn gì mà mập quá vậy!”. Khi tôi bị cầm tù, tôi được quý đồng bào cho biết tên Hai Thổ đi vào chùa chỉ tay vào các pho tương Phật nói: “Thằng Thiện Minh đã bị bắt giam rồi, còn mấy thằng Phật xi măng nầy cũng sẽ áp giải đi luôn” mãi cho đến sau nầy cũng chính tên Hai Thổ, khi hắn đã là Bí thư xã uỷ xã Châu Hưng kiêm huyện uỷ viên, huyện Vĩnh Lợi, hắn đã ra lệnh tịch thu chiếm dụng phi pháp ngôi chùa Vĩnh Bình và dời tất cả tượng Phật sang chùa Giác Hoa tức chùa Cô Hai Ngó ở bên sông. Thế là bức tượng đồng đen 64 kg trong gia phả họ Trần, tổ phụ của Công tử Bạc Liêu là chủ ngôi chùa, đã bị cuỗm đi mất!      

Một vài sự kiện xảy ra tiếp theo khiến tôi bị chính quyền tỉnh nhà chú ý theo dõi, Ban tôn giáo vận phân công ông Thượng Tọa Thích Hiển Giác đến chùa khuyến cáo tôi về những sự việc sau đây. Một hôm tôi nhận được thư mời của ông Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh là Ngô Tam Đạo tức ông Ba Giáo, mời tôi cùng một số chức sắc các tôn giáo trong tỉnh nhà, tất cả mọi người đều bị bắt buộc phải đến biển Bạc Liêu để lao động Xã Hội Chủ Nghĩa mang tính hình thức tượng trưng trong "Công tác thuỷ lợi”. Sở dĩ tôi gọi “Lao động mang tính hình thức” là chính quyền Bạc Liêu chỉ cần chức sắc các tôn giáo phải có mặt đúng thời gian, đúng địa điểm, khoảng 20 phút thôi, mỗi người cầm trên tay một cây cuốc, hoặc xẻng… để cho nhân viên chụp hình quay phim, rồi họ đưa xe chở về liền. Sau đó, họ sẽ phát lại trên đài truyền hình và đài truyền thanh trong tỉnh nhằm mục đích động viên đồng bào tỉnh nhà noi gương trên. Mọi người sẽ được Uỷ Ban Mặt Trận tỉnh thiết đãi một bữa cơm thân mật tại quán cơm "Sừng Ký ".


     Họ thông báo sẽ cho xe đưa rước tận nơi. Nhận được giấy mời, tôi liên hệ với ông Linh Mục Nguyễn văn Nhì cha sở họ đạo tỉnh Bạc Liêu và Ngài Ngọc Phương đầu tộc huyện Vĩnh Lợi. Cả ba người chúng tôi cùng đến trước một ngày để gặp ông Ngô Tam Đạo nhằm phản đối về hình thức lao động giả dối này. Tôi thẳng thừng cho rằng đây là việc làm không thật trái với lời chư Phật đã dạy và không thích hợp với hạnh nhà tu. Linh Mục Nhì và Ngài đầu tộc Ngọc Phương cũng đều phản đối việc làm không chân thật trái với ý Chúa và lời dạy của Thánh Hiền! Ông Ba Giáo trả lời rằng: "Đây chỉ là bước đầu gợi ý xem có được hay không, chứ Ủy Ban mặt trận tỉnh chúng tôi còn phải thăm dò nhiều tôn giáo và đoàn thể khác nữa!”. Chính vì đó buổi lao động hình thức bị đình hoãn, thế là cuộc vận động quần chúng không thành. Chính quyền Mặt Trận tỉnh đã tổ chức một cuộc họp để lên án, chỉ trích và khuyến cáo tôi. Hơn hai tháng sau, ông Thượng Tọa Thích Hiển Giác một cán bộ hoạt động thành, đội lốt Tôn giáo, là Cộng sản nằm vùng, đã đứng ra chủ trì phiên họp để bầu Ban đại diện Phật giáo tỉnh và Ban đại diện Phật giáo thị xã Bạc Liêu. Trong đó có cả ông Thích Huệ Hà (ông thầy thế độ của tôi cũng bị ông Hiển Giác giật dây xỏ mũi hoạt động cho cộng sản nữa), Đại Đức Thích Minh Đức tức Giáo sư Thành nay đã định cư tại Mỹ được mời làm thư ký buổi họp hôm ấy. Cuộc họp được tổ chức tại chùa Vĩnh Hòa có sự tham dự của mặt trận Tổ quốc tỉnh, mặt trận Tổ quốc thị xã và có cả công an. Khi mở đầu khai mạc cuộc họp, ông Thích Hiển Giác giới thiệu, nội dung chương trình và nhu cầu thành lập Ban đại diện tỉnh, thị xã… Ngay lúc đó, tôi đã đứng dậy có thái độ phản ứng và tuyên đọc Thông tư của Tổng thư ký Viện Hóa Đạo GHPGVNTN do Hoà Thượng Thích Quảng Độ ấn ký phổ biến. Tôi còn nhớ trong nội dung thông tư có một đoạn nhấn mạnh như sau "Yêu cầu tất cả những thành viên trực thuộc GHPGVNTN phải bảo vệ chùa viện, Phật học viện, tự viện và các cơ sở là tài sản của giáo hội. Ngoài ra, bất cứ cá nhân nào tham chính được xem như tự ý ly khai khỏi giáo hội ". Sau khi tôi tuyên đọc lại nội dung này, lẽ tất nhiên ông Thích Hiển Giác và ông Thích Huệ Hà tỏ vẻ thất vọng vì đã là người tham gia chính quyền, thì 2 ông sẽ không đủ tư cách để triệu tập cuộc họp, hay nói đúng hơn các ông đã bị loại ra khỏi GHPGVNTN.


     Nếu căn cứ theo tinh thần chỉ thị của thông tư nói trên, cho nên cuộc họp phải dừng lại và một lần nữa, tôi tiếp tục bị sự chú ý và bị lên án gắt gao hơn. Điều xót xa và đau lòng nhất của tôi là ông Thích Huệ Hà, vị ân sư khả kính của tôi đã giác ngộ cộng sản một cách nhiệt thành, nên tôi đành phải phụ tình Ngài, bởi “Quân bất minh thần bất trung, Phụ bất từ tử bất hiếu”. Tôi phải tìm hướng đúng để chọn đi và chỉ có 2 con đường "Hắc bạch phân minh", không có con đường nào khác, con đường tôi cho là hướng đúng, nhưng thật ra chỉ là con đường cũ tức con đường trung thành với GHPGVNTN, chứ không phải chạy theo Giáo hội của Chính quyền CS, một Giáo hội do nhà nước lập ra để làm công cụ cho Mặt trận, cho tôn giáo vận, cho Đảng cộng sản, một Hiệp hội Phật Giáo Việt Nam nhưng, theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.


     Thấm thoát mùa Phật Đản năm 1976 đã đến, tức kỷ niệm lần thứ 2520 ngày giáng sinh Đức Phật. Tôi có tổ chức một cuộc lễ khá quy mô, có cộ hoa, treo cờ phật giáo, biểu ngữ… đồng thời cũng là ngày tôi làm lễ An vị Phật “Đức Thích Ca Mâu Ni”. Cờ Phật giáo được treo, chạy dài hơn hai cây số, hai bên đường có hai hàng phật tử tay cầm cờ, cầm hoa hoặc cầm hương xếp hàng từ trong chùa ra tới cổng gần quốc lộ 1A hơn 200 mét. Trong lúc thượng cờ Phật giáo, có treo cả cờ của chính quyền theo đúng kích thước được chỉ định của Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh, tức treo cờ tôn giáo phải nhỏ hơn 2/3 kích thước, so với lá cờ của chính quyền và theo sự hướng dẫn của thông tư, từ ngoài nhìn vào lá cờ tôn giáo treo bên trái, còn bên phải là cờ chính quyền. Mặc dầu tôi đã chấp hành đúng qui định như thế, nhưng chính quyền xã Châu Hưng tức ông Chủ tịch Phạm Văn Bé (Nay là Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Bạc Liêu) đã bảo anh ủy viên thư ký xã tên "Lếnh" đến chùa tôi ra lệnh treo lá cờ Phật giáo phải thấp hơn lá cờ của chính quyền 2 m và không được treo ngang nhau. Tôi trả lời rằng "Tôi đã hiểu rõ qui định của Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh phổ biến và hướng dẫn cách thức treo cờ, nên tôi không thể treo lá cờ Phật giáo như lá cờ rũ, cờ tang được. Nếu chính quyền không đồng ý thì tôi sẽ trả lại chính quyền lá cờ của Nhà nước, và từ đây trở về sau tôi không treo lá cờ Nhà nước nữa. Ngay bây giờ tôi chỉ treo lá cờ của Phật giáo mà thôi, vì hôm nay là ngày lễ Phật Đản, chứ không phải là ngày lễ của nhà nước các ông, các ông nên nhớ rằng khắp năm châu, trên toàn thế giới nơi nào có đạo Phật nơi ấy đều có treo cờ Phật Giáo vào ngày hôm nay, chứ không phải riêng tại Việt Nam đâu.".      

Đây cũng là một cú sốc lớn giữa chính quyền địa phương xã với bổn tự của tôi, nên sau lễ Phật Đản hai ngày, tôi lại nhận được giấy mời với nội dung như sau: Khi nhận được thư mời vào thời điểm nửa đêm, với nội dung ra lệnh bắt buộc, giống như một tờ trát đòi, tôi biết chắc chắn sự việc chẳng tốt đẹp gì, nên tôi bố trí một số phật tử lớn tuổi, nhất là những gia đình có công với cái gọi là "Kách mạng" hay có con cháu tham gia kháng chiến, chẳng hạn như cụ Huỳnh Thị Tùng, có biệt danh là Bà Tám La lúc đó 74 tuổi. Cụ này là bà nội vợ của tên Tư Húa, và cụ Tô Thị Trời 76 tuổi có 2 người con đang công tác tại Bạc Liêu, Tư Mùi là trung uý công an huyện Vĩnh Lợi, Ba Công là đại uý trưởng đồn công an biên phòng tỉnh Minh Hải.      

Tôi nhờ quí cụ này đi theo hỗ trợ, khi đến nơi tên Tư Húa ra lệnh bảo tôi phải tự làm đơn dâng hiến ngôi chùa Vĩnh Bình cho uỷ ban Xã Châu Hưng làm cơ quan xã đội với lý do ngôi chùa này của điền chủ, có một thời đã từng gây tội ác với nhân dân, đã từng hút máu nhân dân. Anh ta bảo rằng, nếu đồng ý thì anh ta sẽ giúp đỡ giới thiệu tôi thuyên chuyển đến bất cứ ngôi chùa nào trong tỉnh, và đến đó sẽ có chính quyền ủng hộ. Tôi trả lời rằng : "Mặc dầu chủ chùa đã hiến cho tôi để tu hành và cai quản tài sản, đất đai nơi đây, nhưng tôi là thành viên của giáo hội, nên tài sản này trực thuộc GHPGVNTN. Ông có thể trực tiếp đến Ban đại diện Phật giáo tỉnh, đề nghị vấn đề này hay nói cho đúng hơn là ông phải được sự chấp thuận của Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, ngụ tại văn phòng số 243, Đường Sư Vạn Hạnh Quận 10, tức Tổ Đình Ấn Quang. Bản thân tôi làm Trụ Trì nhưng tôi không có quyền quyết định hiến ngôi chùa này cho nhà nước được, vì đây là nguyên tắc về thủ tục hành chính và giáo uy của GHPGVNTN”. Tôi vừa nói tới đó thì các cụ Phật tử xuất hiện, lên tiếng la rất to "Bộ chúng mầy muốn chiếm chùa hả! Tụi mầy muốn bắt ông thầy hả! Đồ ăn cướp". Tên Tư Húa trông thấy bà Tám La là bà nội vợ của mình nên vội vã năn nỉ các cụ và mời nhỏ nhẹ để các cụ ra về trong đêm.


      Ngày hôm sau tôi đem lá thư mời của anh Tư Húa đến trình với ông Huỳnh Nghiệp Đoàn Chủ tịch MTTQ huyện Vĩnh Lợi, nguyên Trưởng ban công an huyện Vĩnh Lợi vừa mới chuyển đến, ông Ngô Tam Đạo Chủ tịch MTTQ tỉnh Minh Hải, ông Thích Hiển Giác Phó Ban tôn giáo vận kiêm uỷ viên MTTQ tỉnh và ông Thích Huệ Hà uỷ viên MTTQ tỉnh. Ông Huỳnh Nghiệp Đoàn, tự là Tư Nhẫn hứa với tôi là ông sẽ thông báo cho ông Tô Minh Hiển, tức Năm Hiển, Bí Thư huyện Ủy, huyện Vĩnh Lợi, ông Bùi văn Lẹ, Trưởng công an huyện, và ông huyện Đội trưởng để khiển trách tên Tư Húa.


     Việc khiển trách không biết có hay không, nhưng hơn 1 tuần lễ sau, tên Tư Húa lại tiếp tục gởi cho tôi 1 lá thư thứ hai, với nội dung cũng tương tự như lá thư thứ nhất, đặc biệt là thời gian đưa thư là lúc 2 giờ sáng. Khi tôi đến, hắn ta dùng lời lẽ dọa dẫm bắt nạt, anh ta nói rằng "Tôi nhất định sẽ cưỡng chiếm ngôi chùa này bằng mọi cách". Hôm sau, tôi cầm cả 2 bức thư nói trên và cùng với Hoà Thượng Thích Tịnh Hạnh đương kim Chánh đại diện tỉnh Hậu Giang đi đến Tổ Đình Ấn Quang để trình cho Hội đồng Viện Hoá Đạo và sau đó chúng tôi đến trực tiếp xin gặp ông Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.


     Ông Thọ ra chỉ thị cho Chánh văn phòng của ông gửi một văn thư về địa phương, khi tôi về Bạc Liêu và gặp ngay anh Ngô tư Húa để trình xem. Tư Húa xé ngay văn thư sau khi đọc xong và nói rằng: "Chừng nào thằng Thọ, thằng Phát tức Huỳnh Tấn Phát Chủ tịch Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam, xuống tận đây thì mới không lấy ngôi chùa này mà thôi!".  Khi nghe nói xong tôi biết cái tôn ty trật tự của Cộng Sản chỉ gật đầu tuân thủ ngay trước mặt, chứ sau lưng thì…và “Phép vua thua lệ làng rồi”. Từ đó tôi liên tục gởi nhiều lá đơn đến Trung Ương Hà Nội như: 1. Ông Tôn Đức Thắng Chủ Tịch nước.2. Ông Phạm Văn Đồng Thủ tướng Chính Phủ.


3. Ông Trần Hữu Dực, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.4. Ông Phạm Văn Bạch Chánh Án Toà Án Nhân dân Tối cao.     Rồi thời gian cứ trôi, tôi cứ chờ và chờ mãi… mà chẳng thấy ai giải quyết, cũng chẳng thấy ai hồi âm. Một bữa nọ, tên Tư Húa đến chùa của tôi và nói “Tôi lỡ hứa với thằng Hai Thổ, xã Đội Trưởng xã Châu Hưng trong tiệc nhậu là sẽ tìm cho nó một chỗ để làm cơ quan xã Đội và nó thách tôi nếu quản lý ngôi chùa Vĩnh Bình thì mới hay! Ông hãy thu xếp đi nơi khác giúp tôi”.  Tôi trả lời “Mấy Ông nói chuyện như bỡn, đừng mong có chuyện tôi hiến chùa để làm cơ quan”. Không được toại nguyện, từ đó Tư Húa càng căm ghét tôi. Lúc nầy ở tỉnh Minh Hải, tôi cùng Hoà Thượng Thích Trí Đức phải đi vận động để thành lập Ban đại diện GHPGVNTN ngầm của tỉnh. Chúng tôi không thể hoạt động phật sự công khai, vì Giáo Hội Phật Giáo thuần túy luôn luôn bị Ban tôn giáo vận và các ông tham gia Mặt trận bóp chẹt.     

 Điều đáng buồn là tỉnh Minh Hải có vài thành viên có chức vụ cao trong Ban đại diện tự ý ly khai khỏi Giáo hội, họ tham gia chính quyền MT và Phật Giáo do nhà nước lập ra, họ ép buộc các thành viên của Ban đại diện các cấp phải tham gia Phật Giáo do nhà nước thành lập. Từ đó mọi công tác Phật sự của Giáo hội bị bế tắc, Giáo hội nói riêng và Phật Giáo nói chung lâm vào thời kỳ Pháp Nạn. Đồng bào Phật tử tại tỉnh nhà chưa thấu hiểu, nên phân vân, nghi ngại và ít nhiều sợ sệt chính quyền cộng sản. Trong khi đó, GHPGVNTN ở Trung ương thì Hội đồng Viện Hóa Đạo đã bắt đầu bị khủng bố, kẻ bị bắt, người bị chụp mũ, kẻ bị hăm dọa, người bị tù đày.


     Tại các địa phương Cộng sản bắt đầu đàn áp Phật giáo đến nỗi Đại Đức Thích Huệ Hiền, thế danh Phạm văn Có, trụ trì Thiền viện cùng chư tăng ni tự thiêu tập thể vào ngày 2.11.75 tại Thiền viện Dược sư ở Cần Thơ để phản kháng chính quyền độc tài cộng sản vô thần đàn áp tôn giáo. Tại Sóc Trăng thì ông Nguyễn Trung Nhựt, tự là Hữu Thương, Chủ tịch Mặt trận TQ tỉnh Hậu Giang, ông Nguyễn Văn Nghiêm, tức Mười Nghiêm, Chủ tịch MT thị xã Sóc Trăng và ông Nguyễn Văn Chèo, tự Bảy Chèo Trưởng ban an ninh nội chính tỉnh Hậu Giang, tổ chức cuộc họp tại trường Bồ đề Sóc Trăng do các ông nầy đứng ra chủ trì, để kết tội và bắt giam Hoà Thượng Thích Thiện Đức, Trụ trì chùa Phước Sơn, Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Ba Xuyên trước đây. Họ qui kết Hòa Thượng là CIA của Mỹ để chiếm trường Bồ Đề sung công tài sản và cơ sở thờ tự, kể cả văn phòng của Ban đại diện GHPG tỉnh.


      Ngay tại trung ương, Cộng sản đã xông vào chùa bắt Hoà Thượng Thích Thiện Minh, thế danh Đỗ Xuân Hàn, cố vấn Viện Hóa Đạo. Hòa Thượng đã bị tra tấn đánh bể sọ và chết trong nhà giam X4 sở công an vào ngày 16-10-1978. Ngoài ra ở khắp các tỉnh nhiều ngôi chùa, trường học, Tự viện và tài sản Giáo hội bị quản lý sung công. Những ngày tháng này, tại Tổ đình Ấn Quang, văn phòng Viện Hóa Đạo lúc này ăn gạo đỏ gần như ăn độn, một tô canh nấu với một nắm nui lõng bõng. Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Viện chủ phải ngồi trên xe lăn tay. Đại Đức Thích Minh Phát một mình phải bươn chải rất vất vả để qúy Ôn, quý thầy, tạm đỡ lòng với tương, dưa, rau, muối qua ngày.


     Từ Bạc Liêu tôi thỉnh thoảng đi cùng Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh, đương kiêm Chánh đại diện GHPGVN Tỉnh Hậu Giang và Hoà Thượng Thích Huyền Vân phó Đại diện. Hòa Thượng cũng là huynh đệ đồng sư môn của "Ôn" đương kiêm Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN hiện nay. Chúng tôi thường mang theo đi đường một hoặc hai bao cát đựng gạo trắng, đem đến chùa Ấn Quang để cúng dường quí Chư Tôn Đức. Trên đường đi, chúng tôi phải vượt qua nhiều trạm xét hỏi, có khi bị tịch thu, thật vô cùng khó khăn, để trình bày cho thấu tình đạt lý với công an và quản lý thị trường. Chúng tôi nhiều lúc phải nài nỉ hoặc biết cư xử khéo mới qua khỏi trạm được an toàn, mà đường dài hơn 300 cây số, lại phải qua rất nhiều trạm kiểm soát chứ chẳng dễ dàng gì. Một hôm chúng tôi bị trạm xét xe liên tục nên đến thành phố quá khuya đành phải thuê ghế bố tại xa cảng miền Tây để tạm nghỉ qua đêm.


      Trên đời có những chuyện chúng tôi chưa từng biết và cũng không thể ngờ về giới bụi đời, những tay gọi là “lục lâm giang hồ”, nghịch ngợm mánh khóe như sau: Khi tôi nằm ngủ kê đầu bằng cái đãy trong đó có bộ y phục, giấy tờ tùy thân và ít tiền làm xa phí đi đường. Qua một ngày dài vất vả mệt nhọc, tôi đang thiu thiu ngủ thì vài anh bợm giang hồ đi ngang qua dưới chân, họ khều chân bất ngờ khiến tôi giật mình ngồi bật dậy, đến khi tôi nằm xuống trở lại thì ôi thôi! Cái đãy kê đầu của tôi không cánh mà bay mất rồi!


     Lúc này thật hết sức là khổ! không còn tiền để trả tiền mướn ghế bố, đành xin khất nợ bà chủ vậy! Từ giờ đó trở đi tôi không chợp mắt được, trong lòng xốn xang, ray rứt, buồn buồn chỉ mong sau cho trời mau sáng. Khi trời hừng sáng thì tại phòng bán vé mọi người đã nhộn nhịp đến đăng ký mua vé xe. Lúc ấy các nhân viên xa cảng thông báo trên loa phóng thanh tên người bị thất lạc giấy tờ. Nghe gọi đúng tên mình, tôi vội vào xem thì thấy cái đãy của tôi treo gần chỗ bán vé. Sau khi xin nhận lại và kiểm tra thì quần áo, giấy tờ tùy thân còn đủ nhưng mất hết tiền rồi! Cuối cùng, chúng tôi phải tạm bao xe tới Ấn Quang gặp thầy Minh Phát xin ít tiền để trả.      

Sau cái xui rủi đó, lại có niềm vui là khi chúng tôi đến phòng riêng để gặp Hòa Thượng Thích Thuyền Ấn, lúc ấy Ngài là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp. Chúng tôi trình bày tiện dịp đi công tác phật sự, chúng tôi có mang theo gạo trắng thơm, từ dưới quê lên cúng dường quí chư Tôn đức. Hoà Thượng Thích Thuyền Ấn nở nụ cười thật hoan hỷ và thân tình trò chuyện với chúng tôi khá lâu. Ngài có phân tích một số trở ngại khó khăn trong công tác hoằng pháp và hành hóa của Giáo Hội hiện nay. Sau đó, ngài còn tặng về cho mỗi tỉnh 10 quyển Lịch Xuân. Thời điểm này chúng tôi cũng thường xuyên đi về Trung ương gặp Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, để báo cáo tình hình phật sự tại tỉnh nhà và đến chùa Giác Minh gặp Hòa Thượng Thích Quảng Độ, lúc ấy Ngài là Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo GHPGVNTN để bàn về việc thành lập Ban đại diện kín tại 2 tỉnh Bạc Liêu và Hậu Giang, đồng thời vấn an sức khoẻ của hai Ngài và tìm hiểu một số công tác phật sự của giáo hội cần làm trong thời gian tới.


     Lúc ấy tôi có tham gia phụ trách cả hai Ban đại diện Bạc Liêu và Hậu Giang góp phần cùng Hòa Thượng Thích Trí Đức và Hoà Thượng Thích Tịnh Hạnh của hai tỉnh nói trên. Để rút kinh nghiệm của những lần mất mát đồ đạt khi ngủ trọ tại xa cảng miền Tây, những chuyến đi kế tiếp tôi cùng Hoà Thượng Thích Tịnh Hạnh tìm cách đến sớm hơn, hoặc tạm nghỉ tại Cao Đẳng Phật Học Viện Huệ Nghiêm, nơi đây Hòa Thượng Thích Bửu Huệ làm Viện chủ, sẵn tiện thăm thầy Phước Tài đang là Tăng sinh nơi đây.


      Trở lại câu chuyện chùa Vĩnh Bình, từ khi tôi đệ đơn ra Hà Nội đến nay để khiếu tố về hành vi của tên Tư Húa cậy thế ỷ quyền, đòi cưỡng chiếm ngôi chùa một cách phi pháp. Đơn thư gửi đi nhiều lượt mà bặt vô âm tín, chẳng thấy phản hồi. Thời gian cứ dần dà trôi, tôi chờ trong sự tuyệt vọng gần như cháy cả tim gan. Bên cạnh, biết bao chuyện dồn dập phải đối phó, và sự lộng hành của tên ác quỉ Tư Húa ngày càng leo thang. Chính quyền xã Châu Hưng bất lực trong trạng thái đồng tình một cách ngấm ngầm để tên Tư Húa lộng quyền tác oai, tác quái.


      Một hôm ân sư tôi là Hoà Thượng Thích Tịnh Hạnh trên đường xe đi từ Cà Mau về Sóc Trăng, Ngài ghé tạt ngang vào chùa thăm tôi tại Bạc Liêu. Hòa Thượng vừa bước xuống xe thì tên Tư Húa ở đâu lù lù hiện ra trước mắt, hai tay chống nạnh vẻ mặt bặm trợn miệng méo sệch một bên do có một vết sẹo chạy dài trên gương mặt hắn, nghe nói hắn đã bị thương suýt chết trước đây, khi ban đêm bò ra ngoài thành hoạt động. Hắn trông rất hung hãn, dữ tợn ra oai hùng hổ, miệng quát tháo: “Ê! thằng cha thầy chùa kia đi đâu đó ! Có giấy tờ đi đường không?”. Hòa Thượng mỉm cười trả lời “Đi ngang đây hết tiền, tôi ghé chùa Thầy Thiện Minh xin ít tiền xe rồi đi liền”. Mặc cho vị hòa Thượng nói gì thì nói, tên Tư Húa miệng vừa khạc phun nước miếng bốc mùi ba xị đế vừa ra lệnh “Mời anh về cơ quan công an xã làm việc, vì đi đường ghé địa phương này bất hợp pháp”.


      Hay tin, tôi đến gặp ông Trần Văn Trọng, tức ông Năm Trọng, Bí thư xã Châu Hưng, ông Phạm Văn Bé, tức Năm Bé, Chủ tịch xã, Ông Hà Văn Tiền tức Tám Tiền, Trưởng công an xã. Tôi đề nghị các ông nầy trả tự do cho Hoà Thượng. Nhưng, họ bó tay vì nể nang Tư Húa là người ở cấp Huyện, lại trong ngành quân báo "Tình báo quân đội". Lúc bấy giờ đã gần 6 giờ tối, đồng bào phật tử khắp các ấp qui tụ bao quanh công an xã, càng lúc càng đông khoảng 400-500 người, làm nghẽn cả lối đi. Trong khi tôi đang đứng tiếp xúc với mọi người đến hỏi thăm sự việc, thì có nhiều tiếng hô to của đồng bào chửi rủa tên Tư Húa: "Đả đảo thằng Tư Húa! đồ ác độc! thằng Tư Húa đồ tàn nhẫn! loại ngang tàng, hung hãn, mất dạy bắt thầy tu !". Vẻ mặt Tư Húa cứ vênh váo, giọng nói hách dịch, điệu bộ phách lối đi vào đi ra.


     Ủy Ban Nhân Dân xã thì phó mặc để tên Tư Húa tung hoành. Tôi nghĩ có lẽ đây là chứng bệnh công thần và bệnh kiêu ngạo của tên Tư Húa, cho dù hắn ta chỉ là tên chuẩn uý quèn. Sau ngày 30-04-75 hắn ra mặt tỏ vẻ oai phong, cho mình là có quyền lực. Ở xã nầy ai cũng biết có một thời Tư Húa đã từng làm nội ứng ở ấp Cái Dầy. Hắn đi nhân dân tự vệ của chính quyền cũ, ban đêm hắn báo tin cho Việt cộng đột nhập bắt cả trưởng, phó ấp và một số nhân dân tự vệ rồi chính tay y giết chết trong rừng sâu, cho nên hắn ta lúc nào cũng tự hào là đã đạt được kỳ công. Chính vì lẽ đó UB xã có phần nể mặt nhau một chút, nên cũng khó nói. Trong lúc ấy ông phó công an xã tên gọi là Tám Minh đến nói với tôi: "Thôi ông thầy và quí bà con cô bác giải tán về đi! đêm nay tôi sẽ dành chiếc ghế bố của tôi cho ông Hòa Thượng tạm nghỉ, xin quí vị đừng lo". Thế là thầy tôi phải ngủ một đêm tại cơ quan công an xã Châu Hưng. Còn tôi thì về chùa mà trong lòng thấp thỏm không yên. Tôi vẫn biết mọi việc rất bình thường, chẳng có gì là quan trọng cả. Nhưng, tên Tư Húa cố ý muốn làm lớn chuyện để làm oai với tôi. Sáng hôm sau, tôi mặc một bộ đồ cũ mèm với dáng vẻ một người đang đau khổ xách một chiếc giỏ, đựng bên trong một chiếc bánh mì và một ly cà phê sữa.


      Tôi cố ý cho mọi người nhìn thấy, nhất là người mẹ của tên Tư Húa là bà Mười Quang và chị ruột là cô Ba Khiếm, họ là những người đàng hoàng trong xóm, họ đang bán một quán nước bên đường. Tôi biết, nếu họ trông thấy tôi và hiểu sự việc, chắc họ sẽ thúc ép hoặc lên tiếng trách cứ đứa con, đứa em quan liêu cao ngạo này!  Đúng là "Oán tắng hội khổ" trên đường đi độc đạo bất ngờ tôi lại trông thấy tên Tư Húa đi ngược chiều từ xa tiến lại. Tôi không muốn nhìn mặt tên ác gian chút nào cả, nhưng hết đường né tránh đành buộc lòng tôi phải hỏi hắn ta một tiếng “Anh Tư, tôi đề nghị anh nên giải quyết, thả ông thầy tôi về chùa”. Tên Tư Húa miệng cười nhếch mép khinh khỉnh trả lời "Tại sao hôm qua ông khinh dễ tôi? ông không hỏi tôi một tiếng, nếu hỏi thì tôi đã thả rồi!”. Anh ta lại nói tiếp, vừa nói vừa chỉ tay vào cơ quan xã Châu Hưng “Bọn quỷ ma xã này có quyền gì mà hỏi! Thôi ông đưa ổng về chùa đi, ông nói với công an xã là lệnh của Tư Húa, từ đây về sau ông đừng coi thường tôi nữa nhé!". Khi tôi đến rước Hoà Thượng ra về, ông chủ tịch xã Năm Bé nói: “Tư Húa bảo thầy phải làm đơn xin bảo lãnh”. Vì quá nóng lòng lo cho thầy của mình, nên tôi đành phải làm đơn, sau đó thầy trò tôi về chùa. Về đến chùa, Trong lúc chúng tôi đang dùng ngọ trưa, Tư Húa lại xuất hiện từ ngoài cửa chùa xồng xộc xông vào chẳng hỏi ai và hắn ta nhìn mâm cơm nói: “Tu hành gì mà mâm cơm tới ba, bốn món vậy! Nào là rau sống, tàu hủ kho, chao, tô canh rau muống … Nhớ khi đã làm đơn bảo lãnh rồi, sau này bất cứ lúc nào tôi cần làm việc với ông già này là phải đem đến trình diện nhé! " nói rồi hắn ta bỏ đi ra…


                                                                          CHƯƠNG III


GIÚP ĐỠ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ

                          1. KHỞI NGUYÊN TỪ VIỆC CỨU NGƯỜI TRỊ BỆNH CỨU NGƯỜI ĐI DẦN ĐẾN CHỖ HỖ TRỢ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ VÀ LIÊN CAN VÀO VỤ ÁN.


     Kể từ khi chiếm được chính quyền miền Nam, chính quyền Cộng Sản đã thể hiện quyền lực của kẻ độc tài để sách nhiễu và bách hại đồng bào không thương tiếc. Cộng sản không những áp bức bóc lột đồng bào ngoài xã hội mà những kẻ cuồng vọng lại còn giở trò bịp bợm tiến dần lấn áp, uy hiếp đến cửa thiền môn nữa. Sau ngày 30.04.75 chỉ một ngày thôi, nhan nhản những sự bất công tàn bạo của Cộng Sản.     Tôi cảm thấy bất mãn chế độ độc tài nầy, vì tôi không có chút niềm tin nào với đường lối chính sách mà họ đang điều hành. Cộng Sản Việt Nam không hề đem đến hạnh phúc ấm no cho toàn dân dù ở mức độ thấp nhất. Từ đó, những buổi diễn giảng Phật pháp, tôi lồng vào những mẫu chuyện ngụ ngôn, răn đời rất thâm thúy của người xưa, hoặc lấy những điển tích trong Cổ học Tinh hoa để dẫn chứng. Tôi thấu hiểu được tâm tư nguyện vọng, tình cảm và hoàn cảnh của người dân, cho nên những mẫu chuyện, tôi chọn lọc sao cho thật nhạy cảm, phù hợp với tâm lý và đi gần với cuộc sống hiện thực của đời thường. Có những buổi nói chuyện hoặc là thuyết giảng giáo lý, nhiều bô lão rất tâm đắc gật gù, thỏa thích bởi những câu chuyện rất đúng với hiện trạng đã và đang xảy ra trước mắt người dân hàng ngày.


     Sau những buổi thuyết giảng đó, tôi thăm dò tìm hiểu, lắng nghe, những ý kiến của quý cụ sau khi lĩnh hội buổi giảng luận phật lý vừa qua. Tôi cảm thấy hài lòng với đề tài mình đã chọn lọc, đúng lúc, hợp lý hợp tình và tôi luôn cố gắng duy trì, ứng xử thích nghi với nỗi khát vọng trong lòng mọi người là làm sao cho hợp đạo, hợp tình, hợp thời và hợp cảnh. Lúc bấy giờ Hòa Thượng Thích Trí Đức Chánh Đại diên GHPGVNTN tỉnh Bạc Liêu phân công cho tôi phụ trách mở thêm một phòng thuốc nam, châm cứu từ thiện tại chùa Từ Quang, Cây Gừa xã Thạnh Bình huyện Giá Rai nên tôi bận rộn suốt ngày. Một hôm, từ Chùa Từ Quang tôi trở về chùa Vĩnh Bình sau 1 tuần lễ hốt thuốc trị bệnh giúp đồng bào tại nơi nầy. Khi xe vừa đến cổng chùa, tôi trông thấy trước mái hiên, có một người phụ nữ ước chừng 30 tuổi, sau được biết chị tên là Hồ Thị Huệ, tay đang bế một đứa cháu trai, vừa mới sinh hơn một tháng tuổi, dưới chân chị có một chiếc giỏ xách đựng quần áo, tã lót, khăn, dầu cù là, sữa… dành cho bé. Chị vừa ôm con vừa khóc sướt mướt, ngước lên trông thấy tôi chị gật đầu chào, tôi hỏi “Uả sao mà chị khóc dzậy?” Chị trả lời: "Thưa thầy cháu bé bệnh nặng gần chết, bác sĩ ở bệnh viện đã chạy, không còn phương cứu được và bảo tôi đem cháu về nhà để chuẩn bị chôn thôi!”. Chị Huệ xin tôi cho tạm đứng trước hiên chùa, chờ có xuồng quá giang về nhà, thấy vậy, tôi hỏi “cháu bệnh gì ?” Chị trả lời “Cháu bị bệnh phổi rất nặng". Tôi liền đến xem nét mặt cháu bé và xem ngón tay trỏ của cháu, xem cả ba đốt ngón tay về phong môn, phế môn và mạng môn. Do đứa bé sơ sinh bộ mạch chưa đầy đủ nên phải xem các đốt ngón tay này, tôi nhận xét đứa bé bị ngạt thở do đàm chặn cổ họng, chứ không phải bị phổi nặng. Theo tôi, có thể do bú sữa mẹ, vì người mẹ quá nhiệt trong người. Tôi nói: "Đứa bé không sao đâu ! chị hãy bế cháu vào phòng thuốc tôi giúp cho”.     

Lúc bấy giờ tôi nhờ một bà phật tử rất giỏi, chuyên trị bệnh cho trẻ em, tức bà Nguyễn Thị Ngà, còn gọi là cô Hai Huệ, năm nay 76 tuổI hiện còn sống, đang ngụ tại ấp Cái Dầy xã Châu Hưng. Cô Hai Huệ dầm phèn chua cùng vỏ cây so đũa và giấm, dùng lông gà, thọc vào họng cho bé ọe hết đờm ra, chỉ một phút sau bé thở trở lại bình thường, nét mặt trở nên hồng hào tươi tỉnh và khóc oa oa. Chị Huệ, mẹ cháu bé miệng vừa nở nụ cười hiền lành, vui mừng, vừa lấy khăn lau nước mắt. Tôi tiếp tục đưa cho chị thêm một ít thuốc tán để đem về cho cháu uống rồi chị quá giang xuồng về nhà tại xã Châu Thới. Chị không quên cảm ơn và cúi đầu từ giã mọi người.


    Khoảng ba hôm sau, vào lúc buổi chiều, trời sụp tối, thình lình tôi thoáng thấy có vài anh thanh niên đi thoăn thoắt vào cổng chùa. Tôi liếc thấy mỗi người lại đứng mỗi góc bên hông chùa, loáng thoáng bóng người lấp ló sau hàng dừa rồi khuất đi… Tôi vội ra xem thì có một anh thanh niên tuổi khoảng 30, nước da đen xạm nắng. Trông thấy tôi, anh ta ngả nón cúi chào và hỏi “Thưa! Có phải thầy là Thầy Thích Thiện Minh trụ trì chùa này phải không? Tôi đáp lại “Phải! chính tôi". Sau đó, tôi mời anh vào chùa, qua cuộc tiếp xúc trong buổi chiều hôm này, tôi được biết anh tên là Trịnh Thanh Sơn 29 tuổi, anh từ rừng Đước U Minh vừa về thăm nhà, được người vợ là chị Hồ Thị Huệ thông báo lại sự việc, tôi đã chữa trị cứu sống được đứa bé. Hôm nay, mục đích anh đến chùa là để tỏ lòng cảm ơn và xin thêm ít thuốc tán cho cháu bé. Khi trao đổi tiếp chuyện với anh Sơn, anh có nhờ tôi giúp xem giùm tuổi tốt xấu cho anh, liệu anh đang xúc tiến công việc làm ăn lớn có thể thành công không?.       

Rồi tôi và anh lại tâm sự tiếp. Khi hai bên trò chuyện có những nhận xét và nhận thức giống nhau về một số vấn đề xã hội hiện tại nên có sự đồng cảm lạ lùng. Anh bèn tiết lộ cho tôi biết, anh đang trốn học tập cải tạo cùng một số binh lính, hạ sĩ quan, sĩ quan. Hiện đang trú ngụ tại rừng U Minh Hạ và đang có hướng thành lập một tổ chức bí mật để đấu tranh chống cộng đòi tự do. Thế nhưng hoàn cảnh hiện giờ trong thời kỳ còn đang ẩn trốn, mọi việc bước đầu thật hết sức khó khăn, thiếu thốn đủ mọi bề, chẳng hạn như: thiếu dầu để đốt đèn, thiếu pin, thuốc sốt rét, thuốc trừ muỗi, áo mưa, giấy, bút, bàn máy đánh chữ, lương thực thực phẩm, vải may cờ, quân trang quân dụng và cả vũ khí phòng thân… Theo tôi hiểu, dường như nhu cầu gì cũng cần, và đường dây tiếp tế bây giờ chưa có. Sơn chưa tìm được mạnh thường quân đúng nghĩa để đỡ đầu, nhằm kiện toàn và phát triển thành một tổ chức vững mạnh. Khi nghe anh trình bày, tôi rất cảm thông và có hứa hẹn sẽ đóng góp một phần những gì tôi có thể trợ giúp.   

  Kể từ giờ phút đó, tôi bắt đầu tạo mọi điều kiện và khả năng sẵn có của mình để giúp anh, đồng thời giới thiệu, vận động một số mạnh thường quân hỗ trợ tài lực, vật lực, nhân lực mỗi khi anh có dịp từ rừng Cà Mau về Bạc Liêu. Tôi tìm cách quan hệ với một số người quen nhờ gửi gắm một số anh em cài vào làm việc trong các cơ quan nhà nước Cộng sản như: Phòng giao thông vận tải, tòa án, công an, thị đội, huyện đội, xã đội để anh em trong các cơ quan này tìm cách giải quyết những nhu cầu của tổ chức đang cần. Trước tiên, tôi cho mượn một bàn máy đánh chữ, hiến tặng giấy, bút, vải may cờ, áo mưa, thuốc sốt rét, gạo, mặt nạ chống hơi độc, bản đồ tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, bản đồ quân khu bốn...


     Tôi phối hợp cùng một số thành viên trong huyện, tỉnh, cho quay roneo in Cương lĩnh Mặt trận, ra Tuyên cáo, phát tán tài liệu, rải truyền đơn trên diện rộng, từ mặt đất và cả trên không trung. Tôi nghiên cứu phương cách là buộc tài liệu vào cây nhang đang cháy, cột vào chiếc bong bóng hoặc cột vào chân con chim sau đó thả bay trên không, khi nhang cháy tới đâu, thì tài liệu tung rơi tới đấy, rơi rải rác khắp tòa nhà cao tầng, trên cành cây, trên sông… Lúc bấy giờ, công an các tỉnh la hoảng đồn rằng "máy bay hãm thanh của Mỹ bay qua vùng trời VN rải truyền đơn”. Tôi cho rải từ Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, cả thảy gồm 4 tỉnh, khiến những tên Cộng sản đang reo hò, hân hoan vui mừng chiến thắng, cũng phải một phen hú vía kinh hồn! họ tưởng tới rồi! Đồng bào mình cũng tưởng tới rồi … Ngoài ra tôi còn tổ chức những buổi giỗ hay cúng lễ tại tư gia, để một số thành viên của các tổ chức khác từ thành phố Sài Gòn, Biên Hoà và Huế đến tham dự buổi họp bí mật liên minh sát nhập thành một khối lớn hoặc trở thành cao trào đấu tranh ở khắp các địa bàn trong toàn quốc.     

Vào thời điểm này các anh em trong mật cứ U Minh đưa ra một danh xưng với tên gọi là “Mặt Trận Dân Quân Phục Quốc" để nhờ tôi tư vấn. Tôi có ý kiến nên đổi danh xưng thành "Mặt Trận Nghĩa quân Cứu quốc, Việt Nam Dân Quốc". Sở dĩ, tôi đề nghị thay đổi là vì tôi mong muốn phong trào nên noi gương “Bình Định Vương Lê Lợi", tức nghĩa quân Lê Lợi, những chiến sĩ có nghĩa khí đứng lên cứu quốc, chứ không phải chỉ khôi phục lại cái cũ, theo tôi cái cũ cũng cần phải điều chỉnh và cái cũ vẫn bị động vì bị lệ thuộc và nếu lệ thuộc hoàn toàn thì sẽ không bao giờ đứng vững trên đôi chân của mình một khi sự trợ giúp không còn nữa thì ta sẽ bị ngã quỵ trong cô đơn.    

Danh xưng mặt trận tôi đưa ra được mọi người hoan hỷ tán thành. Kể từ đó tôi được tổ chức quan tâm hơn, họ sắp xếp hay nói đúng hơn là họ dành cho tôi một vị trí như là cố vấn chính trị của tổ chức. Sự đề bạt này chính bản thân tôi cũng không hề hay biết. Tôi tự xét bản thân tôi không phải là người làm chính trị và cũng không có khả năng đảm nhiệm trọng trách mà anh em đã đề bạt như vậy. Cho đến khi tôi bị bắt, bị điều tra nhiều lần tôi mới ngỡ ra là có một vài người trong tổ chức bị bắt, trong đó có cả anh Trịnh Thanh Sơn, đều khai báo với cơ quan điều tra là họ bầu tôi với chức vụ “Cố Vấn”. Họ thấy tôi giúp đỡ nhiệt tình nên đồng thanh đề cử, mà chưa tiện việc thông báo cho tôi hay. Chính vì lẽ ấy, nên bản cáo trạng đầu tiên kết luận tôi là thành phần đặc biệt nguy hiểm và bản án căn cứ vào khoản A của sắc luật 03 là án Tử hình. Lúc bấy giờ là cao điểm cần trấn áp, xử án thật nặng để làm gương, cho nên các vụ án chính trị trong toàn quốc khi ra tòa đều bị tử hình từ 3 đến 5 người, từ đầu vụ tính trở xuống. Nhiều người án tử đã bị đem đi hành quyết. Riêng bản thân tôi được anh em đề bạt chức vụ cao như vậy, cho nên cơ quan giữ quyền công tố và tòa án tỉnh Minh Hải qui kết tôi là người đứng đầu của tổ chức. “Mặt Trận Nghĩa Quân cứu Quốc Việt Nam Dân Quốc” đây là điều mà tôi không bao giờ lường trước được. Tôi chỉ biết rằng, nếu bất cứ ai đứng đầu vụ án thì không tránh khỏi cái chết. Đó là thực tế qua các phiên tòa đã xét xử.


     Âu cũng là quả nghiệp cả! Tôi cũng nhận thức rõ điều này nhất là trường hợp gánh vác trách nhiệm “Đứng mũi chịu sào” thì hậu quả chắc khó lường. Thế nhưng khi ra tòa tôi vẫn mặc nhiên không cải chính, thôi thì: “Cũng đành nhắm mắt đưa chân, Thử xem con tạo xoay vần đến đâu!”. Tôi nghĩ rằng nếu tôi phủ nhận mình không phải là người cầm đầu tổ chức, thì chắc chắn anh Trịnh Thanh Sơn và một vài nhân sự kế tiếp sẽ bị kết án tử hình. Nếu để các anh em bị án tử hình, thì gia đình vợ con của họ sẽ bị khốn khổ còn tôi là nhà tu cũng phải có đức hy sinh dẫu có bị tử hình cũng chẳng sao, vì chỉ là “Sự giải thoát”.     Mặc dầu nghĩ thế, nhưng tôi vẫn âu lo “là người xuất gia tu học giống như kẻ lữ hành, đường đi còn xa, đích chưa đến chỉ e cuộc hành trình lỡ bước nửa đường chăng! cũng như tôi chưa trải qua đoạn cuối của sinh, lão, bệnh mà lại “tử” thì liệu bao năm tu hành của mình có đủ công đức, phúc duyên, phúc lực để làm tư lương cho đời hiện tại và đời sau nữa hay không? Thôi thì, chỉ cầu mong cho dù “Sinh hay Tử”. Suốt đời hiện tại cũng như đời sau tôi xin phát nguyện tiếp tục làm lành, vun trồng cội đức, hết lòng phụng sự Chánh Pháp đem đến lợi lạc cho quần sinh để đáp đền ơn muôn một của chư Phật”. Hơn nữa, tôi luôn nhớ câu “Ái quốc hà cô duy hữu tinh thần chung bất tử”người yêu nước đâu có tội tình gì chỉ có tinh thần là không chết. Vì luật pháp mà đem những người yêu nước ra xét xử là luật pháp tồi, là luật rừng, là luật của kẻ buôn dân bán nước, là luật của những kẻ đè đầu cưỡi cổ làm hại nước hại dân mà thôi! Còn luật pháp mà đem những người yêu đạo ra xét xử là luật pháp vô đạo, vô luân, là luật của những tên đồ tể, hung tàn! Cho nên nếu có bị tử hình cũng là vinh dự, chứ tôi có làm điều gì tồi bại, xấu xa, khổ dân khổ nước đâu mà mang tiếng nhuốc nhơ muôn thuở! Vả lại, ở trên đời này mỗi khi một chính quyền mới lên thay thế hoặc cướp chính quyền của kẻ khác thì luôn lúc nào cũng tự cho rằng mình là “Chính nghĩa” là “Chơn” còn chính thể bị lật đổ là “tà” là “ngụy” người nào chống lại sẽ bị quy kết là kẻ phản quốc, là kẻ có tội…


     Nói tóm lại chỉ vì “quyền lực và lợi lộc” mà người ta mãi phê phán nhau, gán ghép cho nhau những tội đồ “phản nghịch”, phần nhiều thường xảy ra ở chế độ độc tài, không dân chủ. Bản thân tôi tự xác nhận rằng, từ bé cho đến tuổi trưởng thành, tôi không biết chính trị là gì? Tôi chỉ là kẻ xuất gia tu học, là một người yêu nước chứ không phải là một nhà chính trị, hay là một chính khách. Bản thân tôi không có nghiên cứu chuyên sâu về chính trị, cũng may mắn không liên quan giữa cuộc nội chiến Bắc Nam. Nhưng, khi bị bắt vào tù, mang trọng tội đặc biệt là bị khép vào tội Chính trị cũng là một điều hy hữu không ngờ! Tôi vẫn biết chính quyền Cộng sản ác cảm đối với tôi chỉ vì tôi là người trong GHPGVNTN không ủng hộ chính quyền làm sai mà còn đấu tranh đòi hỏi cho quyền tự do tôn giáo nữa, sẵn cớ nầy họ được dịp ra tay. Tôi những tưởng rằng mình xuất gia đi tu là không màng việc thế sự, gác bỏ ngoài tai những tiếng thị phi, xa lánh chốn phồn hoa đô hội, không mơ chuộng công danh, không mưu cầu lợi lộc và chẳng mê say mùi thế tục !


     Thế nhưng hoàn cảnh xã hội và đất nước đã đưa đẩy khiến tôi đành phải bế cửa chùa, lên đàng cứu nguy đất nước và giải trừ pháp nạn. Tôi còn nhớ một bài thơ tứ tuyệt không biết rõ tác giả là cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Đức Huỳnh Phú Sổ Giáo chủ Đạo Phật giáo Hòa Hảo với bốn câu đầy ý nghĩa và rất hợp với tâm trạng mà tôi còn nhớ như in trong trí não và đã thuộc lòng từ thuở 13, khi thường được nghe những người cao niên ngâm đọc:


"Tu sĩ quyết chùa am bế cửa                                                                

Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha.                                                

 Đền xong nợ nước thù nhà,                                                                          

 Thiền môn trở gót phật đà Nam Mô…".     

Nội dung 4 câu thơ trên, tôi đã có dịp lập lại, nhân trả lời cuộc phỏng vấn của Cô Ỷ Lan đặc phái viên của đài Á Châu Tự do phụ trách. Sau cuộc phỏng vấn hơn 1 tháng bất ngờ tôi nhận điện thoại của một người con Phật, đó là một nữ tu sĩ thuộc Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo thuần túy. Cô Nguyễn thị Hạnh 46 tuổi, cư ngụ tại ấp Bắc, xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. Cô xin thay mặt cho tín đồ Hòa Hảo tỏ lời cảm ơn Hòa Thượng Thích Quảng Độ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và tôi, vì đã lên tiếng về việc nhà cầm quyền CS Việt Nam đàn áp một cách thô bạo Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo khiến một số tín hữu đã thiêu thân “Tử vì Đạo”. Đồng thời Cô Hạnh đã đính chính rõ 4 câu thi Sấm nói trên là những lời tiên tri của Đức Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo. Mấy ngày sau tôi cũng được Ông Lê Minh Triết một tu sĩ Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo tuổi khoảng 60, đã từng trải nghiệm nơi chốn lao tù, nhiều năm ông cùng tôi gắn bó cảnh nằm gai nếm mật “ngọa tân thường đảm” xác nhận bài thi trên một lần nữa. Đến giờ nầy trong lúc đang ngồi ghi lại những trang Hồi Ký tôi vẫn còn thấm thía 4 câu trên. Tôi chỉ ý thức trách nhiệm của bổn phận người dân là đáp ân tổ quốc bằng trí tuệ nhỏ bé của mình cho nên tôi lượng định hai chữ Chính Trị rất là đơn giản. Tự từ ngữ Chính Trị cũng rất rõ nghĩa rồi, vì nó là Chính chứ không phải là Tà, tức Chính trị lấy chính pháp dể trị dân chứ không phải là Tà trị. Tuy nhiên theo sách vở Ông Khổng Tử có định nghĩa “Chính Trị là Chính giả” có nghĩa là ngay thẳng, là đúng đắn hay Chính trị là con đường ngay nẻo thẳng vậy!, tức là những gì chưa đúng, chưa ổn định, ta phải làm sao cho đúng, cho ổn định, cho kiện toàn… Tôi cũng nghe có người còn định nghĩa “Chính trị là thiết kế chấp hành nhân sinh và điều lý tính nhân toàn thiện mỹ”, có nghĩa là thiết kế xây dựng thực thi theo nguyện vọng của toàn dân, đem đến sự tự do, ấm no, hạnh phúc thật sự cho đời sống nhân sinh. Tôi muốn nhấn mạnh 2 chữ thật sự chứ không phải là từ suông hay rỗng toét. Bên cạnh đó còn uốn nắn, điều chỉnh, hướng dẫn cho người dân trở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội. Ngoài ra cũng có người lại định nghĩa ngắn gọn hơn “Chính trị là nghệ thuật (kỹ năng) quản lý xã hội”…


     Có điều đáng buồn là 2 từ ngữ Chính trị ngày nay đã bị người ta lạm dụng, bởi lắm hứa hẹn suông, hoặc nhiều mưu đồ lừa bịp hay luôn dùng thủ đoạn nên từ đó đã làm giảm mất đi ý nghĩa đẹp của nó. Ngày nay chính trị bị người ta nhìn một cách hoài nghi, e dè, sợ sệt hoặc đánh giá một cách méo mó, chứ thật ra nó rất đẹp, rất hay, tự bản thân nó không đen tối mà do những con người hạ sách lợi dụng đã bôi đen hạ thấp ý nghĩa của nó mà thôi. Theo tôi thì người làm Chính trị cũng như cầm lái con thuyền đang đi trên dòng sông hay trên biển vậy. Tùy theo quốc gia nhỏ hay lớn mà ví nó là biển hay dòng sông, trên thuyền có cả một đoàn người giao mạng số của mình cho người cầm lái.    

 Thuyền phải vượt qua muôn trùng vạn dặm ở ngoài khơi, nào là phải né tránh những con thuyền ngược chiều, nào là phải vượt qua mặt những con thuyền cùng chiều, phải cầm lái thật vững, thật giỏi trước sóng to gió lớn, sóng ngầm, đá ngầm và còn phải qua nhiều khúc cua khúc quẹo của dòng sông. Mỗi khúc cua, khúc quẹo chính là tâm tư, tình cảm, nguyện vọng cơ bản và thiết thực của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Người lái thuyền phải học lái, phải có hải đồ, hải bàn, biết sửa chữa cơ bản, biết vận hành máy móc phải cầm lái cẩn thận và nhiệt tình. Đặc biệt, phải lái hết vào từng khúc cua, khúc quẹo của dòng sông, quan trọng nhất là ở điểm này chứ không thể thấy khúc cua, khúc quẹo không lái vào mà lại leo thuyền lên bờ đậu thì không còn gì là chính trị cả. Như vậy người làm chính quyền phải đáp ứng những nguyện vọng những nhu cầu cơ bản của dân, chứ không đáp ứng mà lại làm khác đi thì đâu xứng đáng là chính quyền hay chính trị nữa.


     Thực ra mà nói, nhu cầu căn bản của con người chỉ gồm hai mặt tinh thần và vật chất. Tinh thần đáp ứng với văn hoá và tín ngưỡng, còn vật chất đáp ứng với kinh tế, cho nên bất cứ guồng máy chính quyền nào của bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phục vụ nhu cầu của con người chỉ có hai mặt này mà thôi, dẫu cho chính quyền ấy có bao nhiêu bộ hay ban ngành cũng thế.


     Việt Nam cần phải tiến tới thiết lập một chế độ Dân chủ, tôn trọng những quyền cơ bản nhất của con người, những quyền này được minh định rõ ràng trong Hiến pháp, phù hợp với luật pháp quốc tế và Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Để bảo đảm tính chất quốc tế và tiến trình Dân chủ, đặc biệt Hiến pháp phải được tôn trọng trên thực tế. Điều cần nhất là phải đưa ra một “đường lối mới” đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người dân, “Dân là gốc” chứ không phải “Lấy dân là gốc”và nhất thiết phải phù hợp với xu thế của thế giới mới.

2. BỊ BẮT GIAM ĐIỀU TRA TẠI CƠ QUAN BẢO VỆ CHÍNH TRỊ TỈNH MINH HẢI


     Những ngày sắp bị bắt, trong lòng tôi dường như có linh tính báo trước sắp bị đại nạn. Cuối năm 1978 phụ thân tôi qua đời vì bạo bệnh, gia đình trở nên sa sút các em đông, còn nhỏ dại, mẫu thân tôi sức khoẻ yếu kém và bị bệnh thường xuyên. Mỗi khi về Bạc Liêu châm cứu bệnh nhân tôi thường ghé tạt về nhà thăm viếng gia đình để động viên an ủi các em thơ. Vào ngày 28. 03. 1979 trong lòng tôi bỗng bồn chồn, nôn nao, ngồi đứng không yên, tôi cảm thấy nhớ gia đình, nhớ đến gia nghiêm và thân mẫu, mặc dầu phụ thân tôi đã qua đời cách đây 5 tháng. Tôi vội về nhà đốt nén hương trên bàn thờ cha, vấn an sức khoẻ mẹ già sau đó trở về chùa.


     Tôi vừa bước vào liêu phòng chưa đầy 5 phút, thì có một con chim với bộ lông màu xanh từ ngoài cửa sổ bay vụt vào trong phòng và rớt ngay trên bàn viết rồi giãy chết. Thực ra cửa sổ bằng song cây hơi khít, lại phủ thêm chiếc rèm bằng vải, rất khó bay vào. Tôi nghĩ ngay đây là điềm chẳng lành vì người xưa thường nói “Chim sa cá lụy “ tôi vội nhặt con chim lên đem ra góc cây chuối bên hông chùa đọc chú vảng sanh và chôn nó rồi tôi tịnh nghỉ buổi trưa. Đúng 1 giờ 30 khi chuông đồng hồ reo báo thức cũng là lúc công an vây chặt tứ phía xung quanh chùa. Ông Dương Văn Nhỏ, tức Tư Nhỏ, Phó công an huyện Vĩnh Lợi, cùng một số nhân viên phối hợp với công an xã Châu Hưng, bất ngờ xuất hiện đột ngột nơi Tổ Đường và nhanh chân bước vào phòng khách của tôi. Ông phó công an xã Châu Hưng tên Tư Hường giới thiệu, sau đó ông Dương Văn Nhỏ lên tiếng mời tôi và người môn đệ của tôi là Thích Thiện Tín, thế danh Trương Phước Hòa. Thầy trò tôi vội thu xếp chuẩn bị đi cùng công an ra quốc lộ 1, tôi thấy chung quanh đây không những chỉ có công an mà có cả bộ đội thuộc huyện đội huyện Vĩnh Lợi nữa, tay họ cầm súng sát khí đằng đằng đôi mắt họ láo liên …     

Họ đưa chúng tôi trên một chiếc xe du lịch màu đen, rất cũ kỹ, đã bạc màu sơn, ngồi hai bên chúng tôi có hai tên công an kè sát bên hông, lúc nào cũng cầm súng trong tay lăm lăm. Xe chạy được khoảng một phần năm đoạn đường thì bị hỏng máy nên phải dừng lại bên đường khá lâu. Sau khi sửa chữa xong, xe chạy trực chỉ về tới phòng công an huyện Vĩnh Lợi thì trời cũng đã nhá nhem tối, mặc dầu đoạn đường chỉ hơn 10 cây số. Đến nơi họ sắp xếp cho thầy trò chúng tôi ở hai phòng khác nhau, khi vào phòng tôi ngồi chờ mãi mà chẳng thấy bóng dáng tên công an nào đếm xỉa, hay hỏi han chi cả. Trời dần dần sụp tối, một buổi chiều buồn ảm đạm thê lương. Tôi biết đêm nay mình không thể về chùa được nữa rồi! Họ muốn cầm giữ mình rồi! Khi tối đến khoảng 7 giờ hơn, có một chú công an tuổi khoảng 17-18 đến mời tôi sang một phòng bên cạnh để nghỉ. Bước vào phòng này tôi thấy mọi thứ đều có sự sắp đặt sẵn sàng nhằm để đập vào mắt tôi, thông qua một đòn cân não và trắc nghiệm tâm lý phủ đầu với một cuộc đấu trí bằng một chiến thuật không lời…    

 Những thứ họ trang hoàng như: một chiếc ghế bố có sẵn mùng, mền, gối, một chiếc đèn nê ông thật sáng. Đặc biệt họ kê một chiếc tủ có 3 ngăn không cửa, bên trong có một quyển tập thơ tựa đề là “Vịnh Đạo Đời “ do chính tôi là tác giả (tập thơ nầy tôi in năm 1973 để ấn tống dày hơn 100 trang), một số mặt nạ chống hơi độc cùng vài tấm bản đồ tỉnh Minh Hải, bản đồ quân khu IV, (đây là bản đồ cũ của chính quyền sài gòn do Nha đồ Bản in ấn ), cùng một số vải may cờ. Nói chung, tất cả những thứ nầy đều do chính tôi là sở hữu chủ, những món này tôi gởi vào rừng sâu cho các anh em trong tổ chức. Hôm nay nhìn thoáng thấy lại những món đồ nầy qua cách trưng bày của họ tôi đã biết họ muốn gì rồi! Đây là nghiệp vụ sơ đẳng của những tên cán bộ điều tra trước khi khai thác, việc nầy chẳng có chi là lạ cả! Đêm ấy, tôi cảm thấy hơi khó ngủ, mỗi khi suy nghĩ tới những món đồ đang nằm trong tủ đối diện tôi. Dường như nó thông báo cho tôi biết tôi sẽ bị tù, bị kết án chứ không phải là việc bình thường nữa đâu! Sáng hôm sau, lúc tôi thức dậy, họ lại ra lệnh chuyển tôi qua một phòng khác và khoảng 3 giờ chiều ngày 30/3/1979 có một chiếc xe du lịch bóng loáng mới toanh màu trắng từ tỉnh Minh Hải đến áp giải một mình tôi về cơ quan Bảo vệ Chính trị tỉnh. Người áp giải là thượng uý Trần Trung Thu, Phó phòng bảo vệ chính trị cuả công an tỉnh. Khi đến đây họ cho tôi tạm nghỉ ở một phòng làm việc, trong phòng này có hai chiếc giường, một chiếc cho tôi nằm, còn chiếc kia là một sĩ quan thiếu uý trông giữ canh chừng tôi.


     Đêm ấy khoảng 1 giờ khuya có một tên thượng uý có mùi bia nồng nặc, xuất hiện bước vào phòng tôi và bảo tôi ngồi dậy làm việc. Tên Thượng uý nói “Khi bị chuyển đến đây anh phải biết mình là ai rồi! và anh tự biết mình phải làm gì rồi! anh phải thành thật khai báo để Đảng và nhà nước có chính sách khoan hồng chứ đừng để chúng tôi có thái độ cư xử không đẹp”. Anh ta lại giới thiệu tiếp tên là Nguyễn Hữu Phước cấp bậc Thượng uý, chức vụ phó phòng. Tôi trả lời rằng “Anh nói phải thành thật khai báo là khai báo cái gì? Còn đối xử không đẹp là đối xử ra sao? bộ đánh hay đem bắn hả?”.


     Tôi vừa nói xong, anh ta áp xô vào mình tôi, dùng hai tay giật đứt chiếc nút áo tràng nâu tôi đang mặc, luôn miệng anh ta nói “Chiếc áo không làm thành thầy tu”. Tôi trả lời ngay "Chiếc nón cối ông đang đội, cũng không cho thấy ông là người cách mạng”. Tên Thượng uý nói tiếp “Tôi sẽ thay mặt chi bộ của chúng tôi để giúp anh một bài học mới và có thể trả lời bất cứ câu hỏi nào, nếu anh cảm thấy chưa hiểu gì về Đảng. Ngoài ra, anh cần phải có sự giáo dục của Đảng bằng mọi hình thức để trở nên một con người mới xã hội chủ nghĩa”. Tôi trả lời rằng “Nếu ông có thể thay mặt Đảng Bộ của ông, để trả lời bất cứ câu hỏi nào mà tôi thắc mắc thì tôi xin hỏi: Bao giờ chế độ của các ông đi đến chủ nghĩa cộng sản và thế giới đại đồng như Mác và Lê Nin đã nói”. Hắn trả lời tôi với giọng cộc lốc “Anh muốn hỏi gì thì hỏi, chứ đừng hỏi điều này”. Tôi nói “Như vậy tôi sẽ hỏi ông điều khác: một người gọi là làm cách mạng như ông, ông nói có thể thay mặt được chi bộ của ông tức thay mặt Đảng mà ông dùng quyền lực của kẻ có vũ khí trên tay làm việc với một nhà sư như tôi tay không tấc thép. Ông lại áp xô vào mình dùng tay giật đứt chiếc nút áo nâu sồng tôi đang mặc, hành vi như thế có phải do Đảng của ông đã huấn luyện và chỉ đạo như vậy không?”. Lúc đó nét mặt tên thượng uý biến sắc và miệng nhanh nhảu với những lời lẽ hết sức thô thiển của những tên thất học vô loài rằng: “ĐM. Có ! Đảng tao dạy như thế đó! Đảng tao còn ra lệnh đem hết cái lũ phản động tụi mầy ra bắn bỏ nữa! chứ giật đứt nút áo là chuyện nhỏ thôi! rồi mầy sẽ thấy … bản án không nhỏ đâu, chỉ có đem chôn thôi!”


     Sau đó hắn bước ra khỏi cửa, vừa đi miệng vừa lẩm bẩm “ ĐM … đồ ngoan cố, tu với hành gì !”. Đến buổi trưa hắn ta trở lại đứng nhìn xung quanh phòng tôi với cặp mắt ngó dáo dác nhìn ngang, nhìn dọc với vẻ dò xét chuyện gì và quay lại nhìn tôi hắn nói “Trưa nay tao cho mầy nhịn đói, chiều nay cũng cho mầy nhịn đói và tiếp theo tao sẽ bỏ đói mầy dài dài … Tao bóp bao tử mầy rồi mầy sẽ tự xin thành thật khai báo hay không cho biết”. Tôi nhếch mép cười và thách thức “Cứ làm!”. Đúng y như rằng buổi trưa hôm đó tôi chẳng có cơm ăn và tối đến tôi cũng nhịn đói, sự nhịn đói 5-3 ngày đối với tôi là chuyện bình thường, duy có điều là tôi được đi vệ sinh nên dùng nước dội cầu (nước có rất nhiều phèn) uống vào cho đỡ đói, khát. Hắn ta bỏ đói tôi hai ngày rưỡi, may mắn là chiều hôm kế có ban chỉ huy ty công an tỉnh Minh Hải gồm Ông Nguyễn Viết Thống tức Tư Thống trưởng Ty, Ông Võ Thanh Tòng tức Ba Trường Sơn phó Ty, Ông Võ Minh Quân tức Bảy Ngởi phó Ty, Ông Phạm Minh Chánh tức ba Lát Gừng trưởng ban Chấp pháp, Ông Phan Ngọc Sến tức Mười Kỷ Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Minh hải, Thượng uý Trần Trung Thu, phó phòng Bảo Vệ Chính trị tỉnh. Họ ra lệnh đưa tôi sang phòng khách để họ nhận diện. Lúc ấy tên Nguyễn Hữu Phước đến gọi tôi. Tôi lấy cớ là bị bỏ đói mấy ngày nên yếu sức không đi nổi. Hắn ta gương mặt tái nhợt, ra vẻ sợ sệt và nói “Anh hãy đi gặp ban lãnh đạo ty công an đi … nhớ đừng nói tôi ra lệnh bỏ đói… chiều nay tôi sẽ bảo người mang cơm đến cho anh bình thường”.


     Tôi đến gặp tất cả mọi người. Họ trố mắt nhìn tôi, nhìn từ đầu đến chân với một thái độ hết sức ngạc nhiên, tưởng chừng như tôi là người từ một hành tinh lạ vừa mới xuất hiện xuống quả địa cầu này, hoặc giả họ là những người đầu tiên mới đến tham quan sở thú là phải. Bởi vì 5- 6 ngày qua bản thân tôi mất ăn thiếu ngủ bởi lạ chỗ, gương mặt hốc hác, quần áo đã bốc mùi hôi vì không được giặt giũ, thân thể gầy đi thấy rõ, tôi cảm thấy người hơi choáng váng bước chân đi lảo đảo, loạng choạng như người say rượu.


3. TRẠI GIAM HUYỆN VĨNH LỢI TỈNH MINH HẢI, NHÀ TÙ ĐẦU TIÊN …     

Khoảng tuần lễ sau, chính anh Nguyễn Hữu Phước cũng là người áp giải tôi trực tiếp đến nhà tù Vĩnh Lợi, để bàn giao cho anh trưởng cai ngục. Lúc đó tôi bị 2 tên công an trại giam lục soát khắp thân thể họ tịch thu tất cả giấy tờ tùy thân, các loại giấy tờ có liên quan đến sở hữu tài sản đất đai của ngôi chùa Vĩnh Bình, chứng minh thư tu sĩ, giấy bổ nhiệm trụ trì… công an cởi áo tràng, và cởi cả bộ quần áo tôi đang mặc. Trong mình tôi chỉ còn lại duy nhất chiếc quần đùi, tên trưởng trại ra lệnh đưa tôi vào phòng giam số 2, còng hai tay tôi bằng chiếc còng số 8 và quyện hai chân bằng hai khoen sắt. Sau đó họ đóng cửa rầm rầm và bỏ đi ra. Tại phòng giam số 2 nơi đây, thật sự là địa ngục trần gian đối với tôi kể từ giờ này. Khi vào phòng tôi bị quyện chân chung một xâu quyện với khoảng 5-6 người, những người này đều mang tội “chính trị” chưa bị kết án nhưng bị cùm kẹp liên tục ngày đêm hơn 4 năm rồi! Thân thể họ tiều tuỵ, gầy guộc xanh xao, nước da tái nhợt, đôi chân teo tóp và gần như bại liệt, đôi mắt hõm sâu, nếp nhăn hằn in trên vầng trán, râu tóc đã bạc nhiều. Khi 2 tên công an ra khỏi phòng thì mọi người vói bắt tay, vồn vã, hỏi thăm tự sự thái độ niềm nở và rất thân tình. Họ rất chú tâm và nôn nóng hỏi tôi cũng như lắng nghe tôi trình bày về mọi tin tức diễn ra bên ngoài, chứng tỏ mọi người rất thiếu thông tin từ lâu. Thỉnh thoảng họ tỏ nụ cười tươi, vui mừng phấn khởi… nhưng chỉ là dáng vẻ bề ngoài chứ bên trong lòng họ đang chất chứa nỗi u buồn lẫn sự khát vọng tự do.    

 Họ tâm sự với tôi về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân bị bắt và những khó khăn trong sinh hoạt thường nhật tại phòng giam này. Ở đây chúng tôi bị quyện chung một cây sắt dài 5-6 thước, các khoen được xỏ vào một cây sắt khá to, bên đầu có một ổ khoá đặc dụng rất khó mở. Chúng tôi thật vất vả khó khăn khi xoay trở cây quyện. Nếu mỗi khi trong cùm có ai đi tiểu tiện là vô cùng phiền toái nhất là lúc về đêm. Bởi tiếng xích sắt khua vang nghe inh ỏi chói tai và sự va chạm vào tường, vào mùng của đồng tù khác sẽ làm nhiều người giật mình thức giấc. Bị mất ngủ sinh ra tính tình bực dọc rất khó chịu…  Mặc dầu có nhiều người rất thông cảm cho trường hợp đặc biệt này. Ngoài ra phòng quá nhỏ mà giam người rất đông nên càng chật hẹp, không đủ ánh sáng lẫn không khí để thở. Khi nằm ngủ, người nằm chồng chéo lên nhau y như những con mắm đang sắp xếp trong khạp. Thật đúng với câu “chật như nêm”. Vả lại tiểu tiện rất bất tiện, tất cả trong một hũ nhỏ để sát góc tường. Người tù mới vào, bất luận là ai cúng phải nằm kề hũ, rồi mới dần dần tiến lên chỗ khác, chỉ ngoại trừ trường hợp có nhân viên công an hay ban giám thị trực tiếp đến phòng qui định chỗ nằm cho cá nhân nào đó là ngoại lệ. Theo kinh nghiệm của tôi, nếu tù chính trị mà được chỉ định chỗ nằm thì ta phải đề phòng dè chừng. Những người nằm bên cạnh ta, hầu hết là người của họ cài vào đang thực hiện “Khổ nhục kế” để thăm dò ta đấy! Hoặc là chỗ của ta đang nằm mà bất thình lình họ đưa người tù mới bị bắt vào để nằm kề bên ta cũng có thể là người của họ nữa. Ngoài ra được qui định chỗ nằm tốt, phần lớn là thân nhân của công an, của những gia đình có thế lực hay những viên chức có quyền thế bị vi phạm pháp luật hoặc là những người tù được sự gởi gắm thì họ sẽ hưởng ưu tiên hơn. Thậm chí chỉ cần quen biết với tên tù trưởng buồng giam hay người có tiền, vật chất biết cư xử với họ cũng sẽ được chỉ định chỗ nằm thoải mái hơn, được giúp đỡ về mọi sinh hoạt… Ở Việt Nam từ ngoài xã hội cho đến trong nhà tù, nếu có tiền, có quyền và có thân thế sẽ là diện ưu tiên số 1, một xã hội đầy dẫy bất công …     

Bản thân tôi đáng lẽ ra phải nằm kề hũ nhưng bị cùm quyện nên ở cách khoảng vài người. Nếu nằm kề hũ thì mỗi khi có người đi tiểu tiện, mùi xú uế sẽ xông lên, vừa văng vung vải, tung toé nước tiểu tiện vào mình, vừa dơ uế thật mất vệ sinh. Hơn nữa, nước tắm giặt rất khan hiếm nên bị nổi ghẻ ngứa, ghẻ mủ khắp thân thể và lây lan cho kẻ khác. Chưa nói vào buổi trưa không khí oi bức, trời nắng gắt thì càng trở nên ngột ngạt khó chịu vì hơi người quá đông. Nhiều người tuổi cao bị mệt lã, phải đem đi cấp cứu. Mọi người trong phòng mồ hôi chảy dầm dề tuôn ra như tắm. Theo qui định, khoảng vài ngày những người trong cùm được đi tắm một lần. Tay tôi ngoài chiếc còng số 8 họ còn tặng thêm chiếc vòng bằng sắt, để mỗi lần đi ra ngoài tắm họ xỏ một sợi dây dài 5-7 thước. Tất cả 5-7 người chúng tôi cùng một xâu dây. Lúc tắm, múc nước chỉ có một tay, cho nên không thể kỳ cọ cho sạch bùn đất hay những tế bào chết ngoài da. Chúng tôi tắm ở một ao nước rất cạn và dơ. Khi tắm giặt nước bên trên chảy xuống ao, cứ múc lên tắm tiếp. Thậm chí khi khát nước cũng cứ múc lên mà uống. Khi nói ra điều này ngồi nhớ lại một vài cảnh tượng trong dạ cảm thấy buồn nôn muốn nhợn ra cổ họng. Hình dung lại sao thấy tởm lợm quá đi thôi! Cái ao này nữ tù cũng thường xuyên tắm giặt, giặt đủ mọi thứ trên đời kể cả tấm tã lót của các cháu bé, nước ao càng ngày càng bị cạn và đục ngầu, nhưng mọi người tù khát nước cứ tự nhiên múc lên mà uống, uống một cách ngon lành, dường như chẳng có suy nghĩ chuyện gì đã xảy ra. Chưa nói gần đó có một chuồng heo hơn 10 con và có đường nước thải của nhà bếp kề gần. Còn cơm của trại nấu toàn là mùi cá khô loại cá biển tanh rình, tanh tưởi thật khó nuốt. Bởi người tù ở huyện Vĩnh Lợi không được tự hâm nấu mà chỉ gửi nhà bếp giúp dùm. Nhà bếp hấp tất cả thức ăn bằng cách cho vào chảo cơm hàng bữa. Từ khi sanh ra cho đến lúc ấy, tôi chưa từng phải chịu cái cảnh ngặt nghèo như thế này! Những ngày đầu tiên khi ăn cơm vào, là tôi nôn mửa ra hết nhưng dần dần phải quen thôi! Vì ăn để mà sống là bản năng sinh tồn của con người. Vả lại, phải cần có sức khoẻ tối thiểu thì trí tuệ mới hoạt động được, nếu thân thể bị suy kiệt thì làm sao trí óc minh mẫn được …     

Dẫu biết xác thân này là vô thường nếu so sánh với thời gian và so với không gian của vũ trụ bao la nó chỉ là vô ngã và “Nhân sinh triêu lộ” đời người ví như sương mai buổi sáng sớm hễ nắng lên là tan. Thế nhưng nó vẫn là phương tiện để ta nương đi đến bến bờ giải thoát. Ta không thể không cần đến nó dùng làm phương tiện để đi cho đến đích. Ngoài ra ở nhà tù huyện Vĩnh Lợi, mỗi lần người nào bị gọi lên hỏi cung, là hai tay phải bị còng dẫn đi. Cho nên khó mà né tránh những cú đánh, đá, hay lên gối… nếu ta đỡ đòn thì gậy gộc, báng súng họ đâu có tha. Vì thế bất cứ ai bị chấp pháp gọi lên điều tra khi trở về phòng thì thân thể tay chân bầm tím, mặt mày sưng vù, đêm về không sao ngủ được; anh em đồng tù thường dùng những từ để châm chọc cho vui là “Bị bầm giập, bị tả tơi như tàu lá chuối”. Nhất là hôm nào gặp mấy tên công an loại 30/4/1975, loại mới vào ngành, nhưng nhờ có chút học vấn và có chút ít võ “Thái cực Đạo” thì anh ta ra đòn tới tấp, vì ngứa nghề, ngứa tay chân hoặc để lấy điểm. Cho nên, người tù phải bao phen khốn đốn bị nội thương vì những tên này…


     Một lần tôi đang bị điều tra tên cán bộ hỏi cung bực tức vì muốn bức cung nhưng không được như ý, anh ta lăm le hăm đánh tôi. Chưa gì, thì tên công an loại 30/4/1975 này đứng gác bên cạnh đã nhảy tới đá thẳng vào mặt tôi và hai tay ra đòn theo kiểu “Thôi sơn thủ” của Thiếu lâm Bắc Phái. Buộc lòng tôi phải bước nhẹ sang né tránh nếu không thì gương mặt thầy tu này về phòng sẽ bị anh em gọi là “cái mặt bị ăn trầu”. Sau đó, tôi lên tiếng một cách mạnh dạn rằng “Xin lỗi anh vì tôi đang ở tù, chứ cở 2 người như anh cũng không thể là đối thủ của tôi nếu muốn công bằng mà tỉ thí". Anh ta nhìn chằm chằm, nhưng trong lòng ắt vẫn còn hậm hực, rồi bỏ đi, sau khi anh được tên cán bộ điều tra ra lệnh. Trại giam huyện Vĩnh Lợi trước đây được xây dựng trên nửa đoạn đường từ Bạc Liêu đến Thị trấn Hòa Bình, gần cánh đồng ruộng lúa mênh mông. Người tù phần đông bị cưỡng bức đi làm ruộng, đào ao, khuân đất, làm lò gạch, chăn nuôi hoặc là đi chài cá, kéo lưới bắt cá đem về cho cơ quan công an huyện…    

 Tôi ở tại đây chỉ khoảng 1 tháng thôi, mà chứng kiến nhiều chuyện bất bình, trái tai gai mắt, biết bao nhiêu sự trù dập bất công. Lúc này bản thân tôi, mới thấm thía với câu mà ông bà ta thường nói “Nhứt nhựt tại tù thiên thu tại ngoại” nhất là vào những đêm dài nằm thao thức trằn trọc, phải đối phó với nhiều việc đang dồn dập lo âu trăn trở trong lòng, cho nên không sao ngủ được. Đêm nằm nghe những tiếng thạch sùng tắc lưỡi, tiếng côn trùng rên rĩ ngoài hiên, tiếng kêu huênh hoang của ểnh ương từ xa vọng lại nghe thật là buồn thảm hòa lẫn vài tiếng tắc kè và những đàn muỗi bay quanh kêu vo ve khắp phòng giam như đang bị bắt buộc, thưởng thức một buổi đại hòa tấu với những khúc nhạc não nùng ai oán bi thương.

4. GIẢI CỨU TÙ NHÂN TRẠI GIAM BỊ THẤTBẠI.


     Có lẽ đây là lần đầu tiên ở tù trong đời, cho nên tôi chưa có kinh nghiệm, thiếu thận trọng nên thất bại, nói đúng hơn là quá non nớt trong chốn lao lung. Là người tu hành nên cũng dễ tin người và không lường trước được hư thật của lòng người “Nhân tâm nan trắc” nên dễ đưa đến sự lâm nạn. Tôi cảm thấy mình hổ thẹn khi tự xét bản thân quá kém cỏi trước những bộ mặt giả nhân giả nghĩa, lừa lọc của người đời cho nên đã kéo theo một vài người vào tù mà suốt đời tôi hối tiếc trong đó có cả người thân là môn đệ, là em ruột của mình. Tôi nhớ lại lời phật dạy: “Có từ bi mà thiếu trí tuệ là từ bi mù, còn có trí tuệ mà thiếu từ bi chỉ là cái đãy đựng sách, nhưng từ bi và trí tuệ cần phải có uy dũng mới toàn vẹn”. Câu chuyện như thế này đây:     

Chứng kiến một tháng tù tại nhà giam Vĩnh Lợi, tôi thấy hàng trăm tù nhân đủ mọi tội trạng khác nhau, phần đông là thường phạm, tất cả đều bị đọa đày lăng nhục. Tôi bèn suy nghĩ và tìm cách để giải cứu đưa họ về mật cứ trong rừng Cà Mau. Tôi bắt đầu làm quen với anh Tiết Sa Rết. Anh ta lớn hơn tôi vài tuổi, người gốc khơ me quê ở tại huyện Vĩnh Châu, dưới chế độ cũ anh Tiết Sa Rết là một chiến sĩ biệt kích dù trong lực lượng đặc nhiệm nhảy toán do Mỹ đào tạo Sau ngày 30/4/1975 anh bị bắt đi học tập cải tạo cả năm, vì bị khép vào loại binh chủng ác ôn. Khi cải tạo xong về địa phương trình diện, thì anh bị chính quyền cơ sở o ép bức hiếp đủ mọi thứ. Anh bất mãn, thế là anh tìm vài quả lựu đạn thừa lúc ban đêm, ném vào nhà của mấy tên chính quyền ấp, xã đã gây thương vong cho một số người.Anh bị bắt và đang chờ ra toà xét xử để nhận một bản án hình sự, chắc chắn là bản án "tử hình". Anh đã ở trại giam huyện Vĩnh Lợi hơn 3 năm nên được trại cho đi lao động làm diện rộng và xa trại vì họ thấy anh rất siêng năng và cần mẫn trong lao động, lời nói có vẻ thật thà. Khi tìm hiểu biết lý lịch, biết rõ vụ án của anh. Tôi tỏ lời làm quen tiếp xúc với anh, vài hôm sau tôi tặng ít quà và tiền để giúp anh chi tiêu vì gia đình anh ít đến thăm nuôi. Sau đó tôi đề nghị nếu thuận tiện anh chuyển cho tôi một bức thư (viết bằng cây bút chì, do anh tìm dùm) gửi đến em ruột của tôi là Huỳnh Hữu Thọ đang công tác tại thị đội thị xã Bạc Liêu. Trong thư tôi bảo em tôi mang theo vũ khí và tìm một số người tôi giới thiệu trong tổ chức đang còn hoạt động bên ngoài đến giải cứu chúng tôi tại trại giam huyện Vĩnh Lợi.     

Khi nhận bức thư trên anh Tiết Sa Rết hứa hẹn trong nội nhựt sẽ trở về báo lại kết quả. Nhưng, anh lại phản bội lời giao ước và đem bức thư trên nộp cho Ban giám thị trại giam để lập công chuộc tội, bức thư đến tay giám thị cũng đồng nghĩa với sự tố giác trực tiếp là tôi đang có âm mưu liên lạc với bên ngoài để tổ chức cướp trại giải thoát tù nhân. Cho nên, khi buổi chiều lao động xong, đáng lý ra anh Rết phải trở về phòng, nhưng anh lại được thuyên chuyển vội vã sang phòng khác. Lúc ấy tôi những tưởng anh bị di dời bất ngờ nên chưa trả lời kết quả cho tôi. Tình thật, một lần nữa tôi còn ít tiền và quà gia đình vừa gởi đến tôi lại biếu hết cho anh để bày tỏ sự cảm ơn. Nào ngờ mọi việc lại ngỡ ngàng vượt quá sức sự tưởng tượng của tôi.     

Buổi chiều tối hôm ấy công an trại giam khiêng kẽm gai, dây chì rào xung quanh các lối đi vào phòng giam. Đặc biệt họ chú ý nhất vào phòng tôi, đến giờ này tôi mới bắt đầu hoài nghi và đoán biết chuyện rủi ro sắp đến với tôi bởi tâm địa phản trắc tráo trở của anh Tiết Sa Rết. Tối hôm ấy công an trại giam tăng cường thêm nhiều phiên gác họ đi qua đi lại thường xuyên, nhìn vào phòng tôi một cách cẩn thận, thỉnh thoảng kiểm sóat số người trong phòng khoảng 15 phút một lần. Đến 8giờ sáng hôm sau một chiếc xe jeep mui trần chạy thẳng đến tận trước cửa phòng giam. Trên xe có khoảng 5 người công an súng ống đầy đủ, lúc đó tên giám thị trưởng trại giam xuất hiện, ra lệnh bảo tôi cùng một vài người chung vụ án gồm: Trịnh Thanh Sơn, Nguyễn Văn bá, Thích Thiện Tín (Trương phước Hòa). Tất cả lên xe, họ áp giải chúng tôi về phòng cảnh sát hình sự Ty công an Minh Hải. Tôi bị giam vào phòng kỷ luật 8A, bị cùm cả tay và chân suốt ngày đêm hơn 8 tháng. Các anh em cũng bị cùm ở phòng bên cạnh. Thật là oan gia lại gặp oan gia, một sự trùng hợp ngẫu nhiên là anh Tiết Sa Rết cũng được chuyển về Bạc Liêu. Anh Rết cũng bị giam vào phòng kỷ luật 8B cùm chung với anh Nguyễn Văn Bá, có lẽ anh sẽ là nhân chứng của âm mưu trốn trại chăng?


     Một hôm công an gọi tôi ra ngoài lấy lời khai, tôi trông thấy anh, anh cứ lấm lét nhìn sang chỗ khác. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp anh liếc trộm nhìn tôi mà chẳng dám nhìn thẳng mặt có lẽ anh thấy có lỗi với tôi chăng? Anh mượn sự việc của tôi để lập công chuộc tội mong được nhà cầm quyền cộng sản VN miễn truy tố nhằm thoát khỏi bản án tử hình. Phải chăng trước cái chết, anh ta cố tìm sự sống nên đã giẫm đạp lên mạng sống của kẻ khác để tìm sự sống cho mình?!     

Khi hiểu được sự việc phản bội của anh Rết, anh Bá người chung vụ án với tôi và một số thường phạm khác đã căm tức anh Rết. Anh Bá gọi sang phòng hỏi tôi, nếu đồng ý thì họ sẽ xử đẹp anh Rết, tức là họ sẽ dạy cho anh ta một bài học có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ bản thân cho đến ngày tàn đời. Tôi suy nghĩ mọi việc đã lỡ rồi, là nhà tu vốn dĩ phải lấy lòng từ bi làm gốc, nhẫn nhục làm hạnh nên khuyên anh em hoan hỷ bỏ qua. Khoảng 6 tháng sau anh Rết đã được cứu xét miễn tố trả tự do, sau khi ở 5 năm tù, vì đã lập được kỳ công.Khoảng 2 năm sau, tôi nghe một người tù mới bị bắt vào cùng quê Vĩnh Châu với anh Tiết Sa Rết báo tin rằng: “Anh Tiết Sa Rết trở về gia đình mấy tháng sau thì bị xe đụng vở sọ chết”. Từ đó, tôi rút ra được bài học "Trong cái chết, để tìm sự sống, đôi khi con người trở thành kẻ phản bội". Tôi nghĩ “ nghĩa tử là nghĩa tận" và “Tử giả biệt luận” thế mà lại viết lại sự thật cũng vì lòng ăn năn hối hận với những anh em vì tôi mà khổ ải vì vụ dự tính bất thành này! 





























No comments:

Post a Comment