CHƯƠNG V
CÀ MÂU
NHÀ
TÙ THỨ BA BẢN ÁN SƠ THẨM BỊ ĐÌNH
Tôi làm việc với ông Ba Lát gừng thêm một
tháng là kết thúc hồ sơ. Ty công an tỉnh Minh Hải ra lệnh áp giải tôi cùng một
số anh em chung vụ án từ phòng cảnh sát hình sự ty công an Minh Hải chuyển về
trại giam Cà Mau (Minh Hải là do 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau ghép lại). Các cơ
quan chính của tỉnh đặt tại Bạc Liêu, Cà Mau xem như là thị Xã nhưng trại giam
tỉnh đặt tại đấy. Vì thế khi hoàn tất điều tra, họ đưa chúng tôi về trại giam
tỉnh. Họ chở chúng tôi trên một chuyến xe vận tải nhỏ. Tuyến đường dài hơn 60
cây số, hai người còng chung một cặp còng số 8. Phía sau một xe hộ tống của
công an vũ trang đi kèm và vài chiếc xe hon đa loại 90 phân khối chạy phía
trước mở đường. Thời điểm lúc bấy giờ, đường quốc lộ gồ ghề lổm chổm, có nhiều
ổ gà… còn chiếc xe quá cũ kỹ được trưng dụng lại nên xe chạy chậm rì .
Mọi
người ngồi trên xe cảm thấy muốn phát bực. Chúng tôi khá vất vả, mệt mõi vì
trời càng lúc càng tối mà chiếc xe lăn bánh chầm chậm trên đường chẳng khác rùa
bò. Anh em vừa đói, vừa khát, có ngườI buồn nôn vì lâu quá không có đi xe, xe
chạy khoảng độ 2/3 đoạn đường thì bị hỏng máy nên dừng lại hơn 2 giờ đồng hồ.
Một chiếc xe áp giải phải chạy tăng tốc thật nhanh về Cà Mau để đem xe khác lên
thay thế. Những tên công an bảo vệ tuổi 16-17, còn non choẹt trông có vẻ nóng
lòng lo sợ. Các chú công an sợ chúng tôi bạo hành nên đến gần hơn để nói chuyện
làm quen. Tôi biết được ý nên biểu tỏ vài câu để trấn an vì thấy các chú còn
non trẻ lại xưng hô với chúng tôi rất lễ phép, có lẽ một phần vì quá sợ nên hạ
mình chăng ? Họ chột dạ vì vừa chờ đợi khá lâu vừa ngại vì tôi biết trong lòng
họ đang lo lắng điều gì. Riêng chúng tôi có niềm an ủi là gần 8 tháng qua, anh
em chưa có điều kiện gặp mặt đông đủ như thế này. Cho dù xe có chạy chậm hay
dừng lại cũng chẳng sao vì đây là cơ hội tốt để cho anh em có dịp hàn huyên và
trao đổi một số vấn đề có liên quan trong những ngày bị câu lưu điều tra.
Mọi
người thông cảm cho nhau, vì ai nấy đều cùng chung cảnh khổ cả, mà người đau
khổ nặng nề nhất về mặt tinh thần chắc chắn phải là tôi. Tôi khổ tâm nhiều bởi
hoàn cảnh gia đình các anh em đồng vụ đều lâm cơn quẫn bách, cuộc sống bấp
bênh, túng thiếu đủ mọi bề, vì “gạo châu củi quế” chế độ cộng sản là chế độ
công hữu, nền kinh tế quốc doanh, tiêu dùng bằng tem phiếu, phải xếp hàng suốt
buổi mới mua được một ít hàng. Có nhiều người dân bực tức nên đồn đại vài câu
truyền khẩu rằng: “Đả đảo Thiệu Kỳ mua
cái gì có cái nấy. Ủng hộ Hồ Chí Minh mua đinh phải xin giấy”. Thời ấy, nếu
gia đình nào có ai bị tù về tội "Chính trị" tất nhiên gia đình ấy sẽ
bị trù dập, bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử, bị chính quyền ngược đãi đủ mọi bề,
và coi như bị vứt bỏ bên ngoài lề xã hội. Thậm chí bà con thân tộc không dám
đến gia đình hỏi han thăm viếng, vì sợ họa lây. Còn lối xóm kẻ nào có thế, có
quyền thì lên mặt hống hách khinh khi cho nên gia đình phải gặp nhiều tủi nhục.
Dưới
chế độ CS mang tội “Chính trị”thì thấy tàn đời là chắc. Chỉ còn chút may mắn là
có mẹ cha, anh chị em ruột thịt hoặc vợ có nghĩa hay con có hiếu kính mới dám
đến thăm nuôi và không nỡ bỏ mình thôi! Nhưng vẫn không phải hoàn toàn tất cả,
có những trường hợp đặc biệt vì lý do hoàn cảnh nghèo ắt cũng thiếu đi nghĩa cử
hay người vợ không thể đợi chờ vì kém đức thủy chung… Nếu hoàn cảnh xã hội
không chuyển biến đổi thay thì các gia đình những công dân hạng 2 như chúng tôi
chắc phải cam chịu “cùng đời mạt kiếp” không ngóc đầu lên nổi với xã hội có
nhiều định kiến như hiện nay. Từ chỗ dân chúng quá bí bách trong cảnh lầm than
khốn khổ, nên hễ đi đâu trông thấy treo trang trọng hình ảnh của Cụ Hồ, hoặc
làm đền thờ, đúc tượng bằng Thạch cao lộng kính, hay tượng đồng làm tốn hao
biết bao tiền của nhân dân, thì dân chúng nảy sinh nhiều bức xúc thán oán nói
lái rằng: “Đại thắng lợi bác Hồ lộng kiếng. Đợi thắng lại bác Hồ liệng cống”, hoặc
thấy chế độ tham nhũng tràn lan dân kêu ca nói lái trách cứ như sau: “Bảng đỏ
sao vàng”nay đổi thành “bỏ đảng sang giàu”. Có người còn làm thơ truyền tụng
dân gian rằng: "Theo bảng đỏ tham giàu rồi bỏ đảng. Thích sao vàng nhũng
lạm để sang giàu! Kháng chiến lâu dài nên khiến chán cho mau, Dân chủ giả giũ
chân sao kịp nữa! Thi đua mãi, thua đi từng hằng bữa, Chính mi làm dân khổ Chí
Minh ơi! Độc lập bây giờ chỉ đập lột mà thôi... Không độc lập, tự do thời không
hạnh phúc!
Chí công
vô tư là mỹ từ làm ô nhục
Nhìn bề
ngoài, trong gỗ mục phết sơn
Nói yêu
thương mà trong dạ căm hờn
Nói nhân
đạo, dạ quen lờn lừa phỉnh!
Không Cần,
Kiệm, không liêm, không chính
Quên cội
nguồn, dân tộc tính Việt Nam!
Thuyết rất
hay, nhưng thực tế mấy khi làm
Bởi bản
chất và túi tham không đáy!
Đưa tổ
quốc đến bần cùng bức hại
Đến ngày
tàn, còn ôm mãi viễn vông!
Nếu thành
công thì cả đại dân tộc thành công
Còn cộng
sản chỉ mưu hòng lợi dụng!
Nay thực
tế đã phơi bày công chúng
Lịch sử
còn, nhân chứng hãy còn đây!
Kìa nhìn
xem hằng vạn kẻ tù đày
Bao tội lỗi
khó mờ phai trong sử sách!
1. HOÀN
CẢNH BI ĐÁT CỦA GIA ĐÌNH
Riêng
gia đình tôi thì bị chính quyền địa phương ở khóm, ấp, phường khống chế, trù
dập, miệt khinh đủ thứ. Họ lấn áp đủ mọi thứ nào là chiếm đất, rào giậu lấn qua
ranh giới thổ cư, lên tiếng sách nhiễu bức hiếp đe dọa đủ mọi điều, nhất là Bùi
Minh Quyền tức tên Tư Quyền là anh em của tên trưởng công an huyện Vĩnh Lợi là
Bùi Văn Lẹ. Tư Quyền dựa thế nên coi trời bằng vung. Ngoài ra, Tư Quyền còn có
người con rể tên Tiến cũng thuộc loại gian manh hiểm độc, cả xóm ai cũng kêu ca
căm phẫn. Chủ tịch phường 7, tên Huỳnh Hoàng Lâm ra lệnh giải tỏa nhà để chiếm
làm chợ họ qui kết là gia đình phản động, còn đất đai họ cho là phi pháp thiếu
giấy chứng từ. Lý do nói khéo của họ trong giấy quyết định giải tỏa là: “Vì
trật tự an toàn giao thông đô thị căn cứ nghị định số 36 , chỉ thị 317 của Thủ
Tướng Chính phủ và chỉ thị 20 của UB tỉnh”, nhưng thật ra thì nhà đất của em
tôi không có ảnh hưởng gì đến sự an toàn giao thông cả. Quyết định giải tỏa
phải thực hiện trong vòng 3 ngày kể từ ngày 7/8/1995 đến ngày 10/8/1995 nếu
chậm trể sẽ bị xử lý theo nghị định xử phạt hành chánh của thủ tướng chính
phủ.(lệnh giải tỏa trong phần phụ lục). Vì hoàn cảnh quá khổ nghèo do thảm trạng
xã hội, nên gia đình tôi gồm: Người em thứ 7 của tôi tên Nghĩa phải nghỉ học để
đi bán bánh mì dạo nuôi gia đình và người em thứ 6 tên Nhiều phải đạp xe vua,
loại xe phải đạp bằng 2 chân, phía sau có gắn cái thùng để chở thêm được vài
người. Riêng người em thứ 5 mới lập gia đình hơn 1 năm, vừa sinh được một bé
gái, bị nghi ngờ có liên quan vụ án nên đã bị tù. Em gái thư Tư phải bán mía,
khoai, cóc, ổi trước nhà. Mẹ tôi tuổi cao sức yếu lại bị bệnh thường xuyên vóc
người mỗi ngày một gầy mòn, thân hình tiều tuỵ lo buồn vì chồng, vì con, tức
cha tôi vừa qua đời cách đây mấy tháng, nay đến tôi và đứa em trai thứ Năm đều
bị tù tội.
Một
điều xót xa là các em tôi còn thơ ngây nhỏ dại đang trong lứa tuổi cắp sách đến
trường, tuổi chỉ biết ăn, biết học, biết chơi. nay đành từ giã mái trường để
tìm kế sinh nhai, vừa nuôi mẹ già đang đau yếu, vừa dành dụm ít tiền hàng tháng
để đi thăm nuôi 2 người anh đang ở tù tận mũi Cà Mau. Có những hôm em Nghĩa bán
bánh mì bị ế vì trời mưa, phải ghé vào các ngôi chùa Khmer ở Sóc Đồn Bạc Liêu
năn nỉ quí sư sải xin đổi gạo để chiều về cho mẹ nấu cơm. Hôm nào không đổi
được gạo đành đem bánh mì về ăn hoặc chỉ mua ít gạo cùng khoai lang để nấu cháo
thay cơm, cho qua ngày đoạn tháng. Em trai tôi là một học sinh hiền lành ngoan
ngoãn, học rất giỏi, không những lễ phép với thầy cô mà còn rất có tình có
nghĩa với bạn học cùng lớp và rất mực hiếu thảo với mẹ cha. Em học luôn đứng
nhất, nhì trong lớp lại được bầu làm trưởng lớp nữa! Nhưng vì hoàn cảnh… nên lỡ
dỡ việc học hành. Có những buổi đi bán bánh mì ngang qua trường cũ, em cố đi
qua thật nhanh, và kéo chiếc nón sụp khỏi vành tai để cho các bạn đừng nhìn
thấy. Thật ra trong lòng em rất tiếc nuối và rạo rực trào dâng một nỗi niềm nữa
vui nữa buồn khôn tả. Em hình dung lại hình ảnh của thầy cô, của bạn bè … đôi
chân em dường như muốn chùn lại, nước mắt lưng tròng.
Một
hôm cô giáo chợt trông thấy gọi em vào, chúng bạn cùng lớp vui mừng quấn quýt
hỏi thăm, sau đó cô giáo lên tiếng kêu gọi các em học sinh hãy mua bánh mì giúp
bạn. Hôm ấy gặp dịp may nên bánh bán hết sớm. Trên đường về nhà, lòng em lâng
lâng nhẹ nhõm khoan khoái vì đã bán hết bánh rồi! Nhưng, vài phút sau đó trong
lòng em lan tỏa một nỗi buồn man mác … bởi bất ngờ gặp lại thầy cô cùng các bạn
và đón nhận tất cả những tình cảm thân thương mà mọi người đã dành cho em. Mấy
hôm sau, cô giáo đến tận gia đình gặp mẹ tôi nhằm động viên để em Nghĩa tiếp
tục học hành, cô giáo nói “nhận thấy em Nghĩa học hành chăm giỏi, tánh tình
ngoan hiền mà bỏ dỡ việc học nữa chừng thì uổng quá! Nếu hoàn cảnh gia đình có
khó khăn thì cô giáo sẽ đóng góp một phần để giúp đỡ như mua tập, sách, bút…
hay giúp một phần tiền đóng học phí để em tiếp tục cắp sách đến trường"
cũng may, nhờ những tình cảm và sự quan tâm của thầy cô, em tôi mới được tiếp
tục đi học cho đến ngày tốt nghiệp Trung học Phổ thông và xin vào ngành sư
phạm. Viết đến đây tôi chợt nhớ lại
những mẫu chuyện kể ngày xưa của các bậc cha ông về “Đạo nghĩa thầy trò"
thật là quí hiếm vô cùng, trong cái xã hội khốn cùng này vẫn còn có số người
thể hiện được những tấm gương sáng về "Đạo làm thầy". Mặc dù 26 năm
tù mới trở về, tôi chưa có dịp gặp và viếng thăm để tỏ lòng biết ơn cô giáo của
em tôi. Nhưng tôi hằng đêm vẫn thầm nguyện cầu cho những ai là ân nhân đối với
bản thân tôi hay gia đình, mẹ già cùng các em dại trong thời điểm gia đình đang
sống cảnh cơ hàn khốn khó, dưới mái tranh nghèo, sống hẩm hiu và chịu đựng biết
bao tủi nhục, đau buồn bởi ách cai trị khắc nghiệt và nhũng lạm của các ông
quan cộng sản địa phương. Nguyện chư phật gia hộ cho quí ân công được an lành
vạn phúc.
2. TRẠI
GIAM CÀ MAU & NHỮNG CHỨNG TÍCH THƯƠNG ĐAU SAU NGÀY 30.4.1975.
Trại
Giam Cà Mau là nhà tù của chế độ cũ để lại, những song sắt thưa nên thoáng rộng
và mát mẻ, trại được xây dựng đúng tiêu chuẩn về diện tích, không khí và ánh
sáng lẫn nhà vệ sinh. Tuy nhiên vào thời gian này người người khắp các tỉnh,
thành đổ xô về đất Mũi để vượt biển ra đi, người đi thoát cũng nhiều, người bị
chìm tàu chết giữa đại dương chẳng ít. Số người bị bắt thì hàng ngày một vài
trăm người có đủ mọi tầng lớp thiếu, thanh, phụ, lão, ấu có cả tu sĩ, văn nghệ
sĩ trí thức, học sinh, sĩ quan binh lính... Cho nên dầu là song sắt có thưa, có
thoáng mát nhưng phòng quá đông người nên cũng khó thở, không khí vẫn ngột
ngạt, ghẻ chóc lây lan bởi vì khan hiếm nước… mọi người tắm giặt chung trong
một thau nên ghẻ ngứa nghẻ mủ nổi lên khắp thân thể.
Chúng tôi đến trại giam Cà Mau cũng phải chấp
hành theo một qui định "Nhập gia tùy tục”, một qui định bất thành văn, rất
tàn nhẫn, phần lớn do những tên trưởng buồng tự biên tự diễn, tự đưa ra điều lệ
rất nghiệt ngã để bắt buộc mọi người phải biết cư xử, nể trọng bọn chúng. Qui
định trại giam Cà Mau cũng giống như trại giam huyện Vĩnh Lợi, người tù nào mới
đến đều phải nằm ở gần cầu vệ sinh, tôi chuyển đến đây cũng ở phòng 2 và cũng
nằm gần cầu vệ sinh theo qui định. Vì phòng quá chật nên nằm ngủ phải trở đầu
nhau, những ngày đầu tiên, ngủ chung 5-6 người trong 1 chiếc mùng nhỏ, đêm nào
tôi cũng bị các anh nằm hai bên gác đôi chân đầy ghẻ mủ trên mặt. Buổi
sáng thức dậy còn nhớt nhợt, nhơm nhớp trên mặt trên đầu kể cả những miếng vảy
(mày) ghẻ, bốc mùi hôi tanh gớm ghiếc. Có hôm buổi sáng chẳng có nước rửa mặt,
mới đáng tởm làm sao! Vả lại theo qui định nơi đây người mới đến đều bị trong
vòng “cô lập" một thời gian. Tất cả mọi cử động, đi, đứng, nằm, ngồi,
tiểu, tiện, kể cả nói chuyện với người bên cạnh cũng phải xin phép anh tổ
trưởng. Mỗi phòng được tổ chức một ban đầu toán gồm 5 người. 1 Toán trưởng, 2
toán phó, 1 an ninh buồng, 1 thư ký buồng, 1 trật tự vệ sinh. Trong phòng chia
ra nhiều tổ, mỗi tổ có 1 tổ trưởng và 1 tổ phó. Ban đầu toán là người ăn trên
ngồi trước, hưởng đủ mọi quyền lợi ưu tiên, người có thăm nuôi phải đem quà để
biếu xén. Họ có quyền nên đưa ra nhiều qui định rắc rối, họ nói ban giám thị
tin nghe, họ vòi vĩnh những người có thăm nuôi như quà cáp, tiền bạc… Mọi
người trong phòng nếu không có trách nhiệm được Ban đầu toán công cử thì sáng
sớm thức dậy đã bị bắt buộc phải ngồi tại chỗ, học nội qui, ngồi cho tới trưa
và từ 1 giờ 30 cho đến 5 giờ chiều, ngồi đến chai đít “chai như đít khỉ ”. Ban
đầu toán ra lệnh phải ngồi trong tình trạng “cô lập” cho đến khi nào thuộc nằm
lòng bản Nội quy và còn phân tích được rốt ráo ý nghĩa sẽ được xem xét nới lỏng
từng bước. Ngoại trừ những người nào bệnh nặng có xin phép được sự đồng ý của Toán trưởng buồng giam mới
được nằm. Hằng ngày, ban đầu toán ngồi chễm chệ uy phong có người phục vụ trông
cảnh ấy thật là chướng tai gai mắt. Không có gì bực mình hơn khi mang tội danh
đấu tranh chống bất công xã hội mà khi sa cơ vào tù lại gặp bất công lộng quyền
ngay trước mặt hằng ngày. Đáng phê phán và lên án miệt khinh những tên mang tội
“Chính trị” mà lại phỉnh nịnh, a dua tâng bốc để được ưu đãi nhẹ nhàng lại còn
lên râu bắt chẹt, hiếp đáp những người cô thế. Có điều thực tế nói ra tôi càng
thấy đau lòng, nghẹn lời nhưng phải nói: “Những người làm trưởng buồng mà tôi
đã trải qua tại phòng 2, trại giam Cà Mau, nếu họ là người của chính quyền chế
độ cũ đều hoàn toàn gian giảo và thâm độc, phần đông tánh tình ích kỷ hẹp hòi.
Có lẽ họ quá sợ liên lụy trách nhiệm nên không dám quan tâm giúp đỡ đồng tù, nhất
là những người tù chính trị. Không những thế mà có khi họ còn cười cợt tù chính
trị cho là “bẻ nạng chống trời”… Nên người nào được chỉ định làm trưởng buồng
họ tuân thủ nội qui 100% và tạo cho mình một chỗ đứng đầy quyền uy để tận
hưởng. Tôi không muốn kể tên những người có thành tích bất hảo ấy trên trang
giấy này vì lòng từ bi. Ngược lại thật trớ trêu, nếu những người cộng sản, có
công kháng chiến sai phạm pháp luật bị tù mà làm trưởng buồng thì phần lớn tánh
tình rộng rãi, giảm bớt nhiều qui định khắt khe, tạo không khí cởi mở, hài hòa,
dễ chịu ít căng thẳng trong phòng. Đây là điều khiến tôi có nhiều trăn trở và
viết lên sự thật vì chính tôi là người trong cuộc.
Mặc
dầu ở nhiều nơi khác trong toàn quốc, nhà tù mọc lên như nấm, không biết có
khác hơn không …Chứ sau ngày 30/4/1975 hàng vạn binh sĩ miền Nam đã bị bắt đi
cải tạo, nhiều người đã bị chết dần chết mòn trong các trại tập trung và nhiều
người đã bị đem đi hành quyết. Bên cạnh đó với chính sách cải tạo công thương
nghiệp "Cải tạo tư sản" nhà cầm quyền Cộng sản đã sung công quản lý
tước đoạt tài sản của nhân dân. Trên danh nghĩa là thu vào công quỹ nhưng thực
chất là bỏ vào túi riêng " Túi tham không đáy" của những tên tham
nhũng cho nên đã tạo ra một tầng lớp mới đó là “Tư bản đỏ”. Nhiều người quá
tiếc của đã toan tự tử hoặc trở thành kẻ trắng tay, hay bị tâm thần điên loạn,
hoặc bỏ nước ra đi, sống tha phương cầu thực nơi đất khách quê người.
Những nỗi khó khăn chồng chất thêm
cái cảnh mẹ góa con côi, những thương binh tật nguyền, nhất là các trẻ mồ côi
phải lang thang nơi đầu đường xó chợ sống trong cảnh “Cầu sương điếm cỏ”của
thời loạn ly vì họa Cộng sản. Nhiều trẻ em trở thành kẻ phạm tội, vì vi phạm
pháp luật cho nên trong tù có những em bé tuổi mới lên 10. Chúng được gởi vào
các trại giáo dưỡng, hai chữ "giáo dưỡng" nghe có vẻ thanh tao, nhưng
những trận đòn roi và mọi hình thức kỷ luật cũng lắm khắt khe, cũng cưỡng bức
lao động cũng cùm quyện. Thời kỳ này người vượt biên bị bắt quá đông, không đủ
chỗ giam giữ, những người bỏ nước ra đi từ 2 đến 3 triệu người. Họ đánh đố số
mạng của mình với sóng to gió lớn của đại dương, nhiều người đã bị chết chìm
trên biển, bị cướp bóc, bị thảm sát, bị hãm hiếp (hãm hiếp cả phụ nữ lớn tuổi
cho đến các em bé gái còn ngây thơ bé bỏng chưa đến tuổi thành niên). Họ thà
thử nghiệm trong cơn hiểm nguy "Thập tử nhất sinh" còn hơn sống dở
chết dở dưới chế độ độc tài toàn trị.
Thảm trạng thuyền nhân tìm tự do đã
chết trên biển Đông, và gần 300.000 người tạm trú trên Đảo Pulau Bidong trong
những cuộc ra đi tìm tự do. Tất cả là những bằng chứng mãi mãi ghi vào trong ký
ức của mọi người dân Việt như là những chứng tích đau thương của một giai đoạn
lịch sử do Cộng sản độc tài sắt máu gây nên. Sau 30-4-75 các phong trào yêu
nước tự phát đứng lên đấu tranh cho tự do dân chủ, nhân quyền, đa nguyên đa
đảng, đã bị nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bắt bớ giam cầm. Họ đã bị truy tố
xét xử với những bản án khổ sai lưu đày biệt xứ và bản án tử hình (tử hình
không loại trừ phụ nữ có mang thai). Tỉnh Minh hải lúc bấy giờ nhà đương quyền
xây dựng thêm nhiều trại tập trung cải tạo, có những địa điểm tới tận rừng sâu.
Công an trại giam càng ngày càng đông, vẻ mặt lúc nào cũng đằng đằng sát khí,
vì nhà nước Việt Nam điều hành chính quyền bằng Công an trị, còn Trung ương Đảng
Cộng sản thì tuyệt đối trung thành với Chủ nghĩa Mác Lênin.
Họ tôn thờ Chủ nghĩa ngoại lai mù
quáng, một học thuyết bần hàn, không tưởng, lạc hậu lỗi thời, không phù hợp với
truyền thống dân tộc, tình dân tộc nghĩa đồng bào hay tổ quốc chỉ là danh từ
đầu môi chót lưỡi của những kẻ cuồng vọng phi nhân. Cộng sản Việt Nam chuyên quyền độc đoán, độc
quyền về chính trị, báo chí, thông tin. Mọi người dân đều mất hết quyền tự do.
Những quyền căn bản của người dân bị tước đoạt, nhân quyền bị chà đạp, không có
quyền tự do ngôn luận, lập hội, tư tưởng, tôn giáo… Họ luôn duy trì chế độ độc
Đảng để đè đầu cưởi cổ nhân dân, họ thao túng trên chính trường để chia cho
nhau tận hưởng quyền và lợi.
3. PHÚC TRA VỚI 2 ÔNG THIỆN VÀ ÁC … CÁO
TRẠNG RA TÒA LẦN THỨ HAI.
Những
ngày tôi bị thuyên chuyển đến trại giam Cà Mau, trước nhất sự thăm nuôi của gia
đình khá vất vả vì đường xa và tôi vẫn còn phải bị phúc tra với hai tên chấp
pháp là Trần Văn Ơn và Lâm Quang Dũng để xác định lần cuối cùng kết quả điều
tra lần đầu. Trước khi cơ quan điều tra kiến nghị khởi tố lên viện kiểm sát
nhân dân Minh Hải, hai tên Ơn và Dũng tôi xem như hai ông thiện và ác. Trần Văn
Ơn là con rễ của Nguyễn Viết Thống, Trưởng ty công an tỉnh Minh Hải, tên này có
sở trường nâng quan điểm và chụp mũ luôn lấy cái “lý của kẻ mạnh” để buộc tội,
một tên thâm hiểm, gian ác và tán tận lương tâm. Hắn ta lúc nào cũng muốn người
bị làm việc với hắn đều phải thọ lãnh bản án “Tử hình" để chứng tỏ thái độ
chuyên chính vô sản của y. Theo anh em kể lại, Trần văn Ơn đã quy tội làm chết
gần 20 người rồi, Ơn kết luận tôi 5 điểm như sau :
Huỳnh Văn Ba có tên gọi khác
trong đạo phật là Thích Thiện Minh, động cơ và nguyên nhân dẫn đến phạm tội của
anh là:
1. Vì hấp thụ tư tưởng của đế quốc Mỹ ở miền Nam
Việt Nam.
2. Vì ảnh hưởng của nền giáo dục phản động và
lạc hậu của ngụy quyền Sài Gòn.
3. Vì theo GHPGVNTN, một giáo hội đã từng là CIA
của Mỹ và chủ trương chống cộng.
4. Vì bản chất cực đoan, kỳ thị chế độ của dân,
vì dân và do dân nên đã mưu đồ rắp tâm lật đổ chế độ.
5. Vì đã từng chống đối lại chính quyền địa
phương và có hành vi hạ cờ nhà nước, phản đối thành lập Ban đại diện GHPG trực
thuộc Tôn giáo vận và Mặt trận tổ quốc. Chỉ bấy nhiêu thôi, hắn ta muốn tôi
phải lên đoạn đầu đài, chứ không còn chừa đất để sống nữa!
Riêng
anh Lâm Quang Dũng thì kết luận có khác, anh Dũng đúc kết lần cuối 3 điểm như
sau:
1. Vì đường lối của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
nghĩa Việt Nam không đi đúng theo di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
2. Vì nhà nước CHXHXHVN không thực hiện đúng
chính sách, như những lời cam kết và hứa hẹn của Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng
bộ ngoại giao của chính phủ Cộng Hòa Miền Nam VN, để cho miền Nam sống trong 5
năm trung lập.
3. Vì lấy cớ cho là Nhà Nước CHXHCNVN đã có ý đồ
đàn áp tôn giáo, trong đó có GHPGVNTN và đã bắt giam một số thành viên của Giáo
Hội Trung ương dựa vào những lý do trên, nên nhà tu đã tìm hướng khác mà đi.
Qua sự đúc kết này, tôi không biết có phải là bằng chứng để Viện kiểm sát đề
nghị bản án có sự châm chước tôi chăng?
4. CUỘC ĐẤU KHẨU VỚI VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM
SÁTNHÂN DÂN TỈNH MINH HẢI
Sau
khi làm việc hơn một tuần lễ với hai tên chấp pháp nói trên cho đến gần một năm
sau đó tôi có làm việc với ông Nguyễn Ngọc Cơ tự là Sáu Búa, Viện trưởng viện
kiểm sat nhân dân tỉnh Minh Hải. Tôi muốn tâm sự ngoài lề một chút, sở dĩ ông
ta có biệt danh là Sáu Búa vì thời kỳ còn hoạt đông trong rừng ông này phụ
trách thi hành án tử hình. Một hôm nọ, tòa án xử tử hình một bà lão trên 70
tuổi, tuổi đã gần đất xa trời, cụ bà bị khép vào tội "làm điềm" tức là
chỉ điểm cho quân đội VNCH. Đáng lý ra ông ta thi hành án xử tử bằng mã tấu,
nhưng đây là phiên tòa nhân dân lưu động đặc biệt, nên khi xử xong là thi hành
án ngay. Hôm đó ông không đem theo mã tấu bên mình, nên đành tạm mượn 1 chiếc búa
của dân làng. Ông phải cật lực và ra đòn đúng 6 nhát búa cụ bà mới tắt thở, sau
đó dân gian loan truyền cụ bà bị hàm oan nên khi chết đôi mắt cứ mở trao tráo,
mà không chịu nhắm nghiền lại. Cho nên ông ta "chết danh" với tên Sáu
Búa và cho đến khi ông làm ở Viện kiểm sát hễ bất cứ ai làm việc với ông ta thì
chắc là khó sống, vì tội nhân chỉ nghe danh thôi thì đã khiếp đảm, rỡn tóc gáy
rồi! Hôm nay tôi làm việc trực tiếp với ông ta, tôi cũng đã tiên liệu trước số
phận của mình sẽ đi về đâu!
Trước
khi bắt đầu kiểm tra, chất vấn và xác minh lại một số vấn đề có liên quan đến
vụ án, ông đã biểu thị thái độ nghiêm nghị, miệng cắn chặt răng, nét mặt hơi
cau lại. Sáu búa mắt nhìn tôi đăm đăm, lấy tay ra dấu hiệu, mời tôi ngồi… Khi
tôi đã ngồi, ông ta tự gật đầu với dáng bộ nghênh ngang, ngồi chéo chân lắc lư
cử động và tự giới thiệu là viện kiểm sát tỉnh Minh Hải đến làm việc lần cuối
trước khi đưa ra tòa xét xử. Câu đầu tiên sáu Búa hỏi tôi: “Anh có sợ chết không?". Tôi trả
lời: "Mọi người trên đời này chỉ
chết có một lần, nhưng ai ai cũng muốn sống, và cũng chẳng có ai sống mãi trên đời,
nhưng sống hay chết như thế nào để có ý nghĩa, có ích cho đời đó mới là điều
quan trọng bởi vì “Tử đắc kỳ sở”. Tôi làm việc này để đồng bào được sống đúng ý
nghĩa của con người, đúng với Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền theo nghị quyết
217A ngày 10-12-1948".
Ông ta hỏi tiếp: “Sống đúng với ý nghĩa của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là như thế nào?".
Tôi trả lời: "Phải có quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Dân quyền không bị tước đoạt, giá trị
nhân phẩm của con người không bị chà đạp, mưu cầu hạnh phúc bằng sự chân chính
chứ không phải tóm thâu của kẻ khác đem về cho mình làm chủ". Ông ta
lại nói tiếp: “Nhưng, nếu chúng tôi đem
anh xét xử với tội chết thì anh nghĩ thế nào?". Tôi trả lời: "Nếu cần phải sống cho sự nghiệp và lý
tưởng được sống mãi ta phải cố sống và nếu cần phải chết cho sự nghiệp và lý
tưởng được sống mãi, đôi lúc ta cũng vui vẻ chết, đó là sự dũng cãm hy sinh để
trở thành bất tử, đối với nhà tu là thánh hóa linh hồn". Sau đó tôi
lại nói tiếp: “Vả lại ông biết rồi đạo
Phật chúng tôi chết là giải thoát". Ông ta nói: "Thôi đừng giảng đạo ở đây nữa, chừng nào về chùa cứ mà giảng đạo,
sợ không chịu nổi nửa mức án, chứ làm gì có thể về chùa”. Thời gian làm
việc hơn nửa giờ đồng hồ, hai bên cứ đấu lý qua lại vẫn chưa đi đến đâu. Ông ta
lườm nguýt tỏ vẻ khó chịu và hỏi tiếp: “Anh
cho biết ai là người đứng đầu tổ chức Trung ương của anh?"
Tôi trả lời: "Ở Trung ương có Thượng
Tướng Trần Văn Trà và Bà Nguyễn Thị Bình". Ông ta đổi sắc mặt lấy tay
vỗ bàn và nói một cách hằn học: "Tại
sao anh lại dám khai hai đồng chí cao cấp của tôi, trong khi hai đồng chí này
có mấy chục năm tuổi Đảng, đã đóng góp nhiều cho cách mạng để đem đến sự thành
công vẻ vang như ngày hôm nay, mà anh cho rằng phản động như anh vậy à! Tại Sao
anh không khai cả tôi luôn đi, tôi tên là Nguyễn Ngọc Cơ tức Sáu Búa nè!"
Khi
nghe xong tôi tỏ thái độ và cử chỉ hơi nghiêng mình, như đang ngắm nghía chăm
chú kỹ càng một việc gì. Tôi nhìn ông ta bằng cặp hơi nheo mày, nhíu mắt lại và
nói: "Xin lỗi ông tôi không phải là
quan, chứ nếu tôi là quan thì tướng mạo của ông xin làm lính tôi, tôi cũng
không nhận, thì khai ông làm gì?". Có lẽ bị cú sốc bất ngờ như xối gáo
nước lạnh vào mặt, ông Sáu Búa liền vói tay chụp lấy cái bình trà để trên bàn
và dự định ném vào người tôi. Tôi rất bình tỉnh và nói: "Tư cách một ông Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, mà
có hành vi thất sách đối với người tù chính trị tôn giáo như tôi à!". Ông
ta bừng tỉnh, dừng tay lại và quát to: "Đồ
ngoan cố, mầy là tên phản động, chuyên khuấy đục và bôi bẩn Đảng, mầy về
đi!". Tôi biết ông ta bảo tôi về phòng giam, như tôi giả vờ và nói: “Tôi thật cảm ơn ông" rồi từ từ đi
khoan thai ra cổng trại giam, tôi đi một cách tự nhiên xem như chẳng có việc
gì… Từ phòng làm việc ông Sáu Búa vội vã chạy vù ra trước sân thật nhanh và
nói: " Ê ! anh đi đâu vậy!". Tôi trả lời: "Đi về chùa, vì ông mới vừa bảo tôi anh về đi mà!". Ông
ta lớn tiếng: "Tôi bảo anh về buồng
giam chứ ai bảo anh về chùa hồi nào? Tội anh là tội chết, thứ ở tù rục xương mà
đòi thả về à! Đồ bướng bỉnh, ngoan cố, loại cứng đầu giờ này mà còn làm bộ vờ
vịt nữa hả!”.
Sau
khi làm việc với ông Sáu Búa, gần 3 tháng tức vào năm 1981 tôi nhận bản cáo
trạng do cô nữ thư ký của tòa án nhân dân tỉnh Minh Hải đem đến tống đạt, và
hơn tuần sau tôi nhận giấy quyết định xét xử của tòa án. Tất cả chúng tôi gồm
21 người, ở 11 phòng khác nhau, mọi người đều chuẩn bị tư thế sẵn sàng. Vào
ngày cuối trước khi lên đường về Bạc Liêu để xét xử, những người bạn tù ở tất
cả 11 phòng giam nói trên họ gởi quà biếu thức ăn, nước uống… Đây là một thông
lệ dành ưu tiên cho tội "chính trị" nhằm khích lệ tinh thần của các
anh chị em vững tâm khi ra trước vành móng ngựa. Họ dùng một chiếc xe tải loại
to được phủ kín để áp giải 21 người, theo sau có đoàn xe vũ trang tay súng sẵn
sàng, công an mặc sắc phục tề chỉnh, mang đủ loại vũ khí, bảng tên luôn đeo
trước ngực. Tự nhiên tôi nhớ lại một bài thơ tù từ thời còn bé của ai đó mà tôi
đã quên tên tác giả:
Chẳng mất
tiền mua cũng được khiêng
Vua quan,
lánh mặt trẻ già kiêng
Đi tiêu có
kẻ canh lầu phụng
Nằm ngủ có
thằng gác động tiên
Ô tô xe
Jeep vài ba chiếc
Đưa đón
nhịp nhàng như cảnh thiên
Bánh, cơm
chẳng tốn xu nào cả
Vinh hạnh
còn hơn chốn cửa thiền...
Khi
đến Bạc Liêu, chúng tôi ở tại phòng giam cảnh sát hình sự tỉnh, nơi đây chúng
tôi đã từng ở 2 năm về trước. Tôi còn gặp lại một vài thường phạm quen mặt, hầu
hết là những người có án nặng. Ngoài ra, số người tù mới bị bắt vào tuổi trên
60-70 cũng khá nhiều, còn tuổi 13-16 khoảng vài mươi cháu, mọi người quần áo
rách nát, thân thể gầy còm, nước da xanh xao tiều tụy, ghẻ chóc mọc đầy mình.
Chúng tôi được thông báo sẽ bị xử công khai tại thị xã Bạc Liêu để làm gương
cho công chúng. Theo kinh nghiệm của những người ở tù lâu khi nhìn xem bản cáo
trạng họ đoán chắc chắn tôi sẽ bị "tử hình" nếu căn cứ vào sắc luật
03 khoản A. Tám giờ sáng ngày mai là phiên tòa xét xử, tối đêm ấy tôi không sao
ngủ được, đôi mắt cứ mở trao tráo, đầu óc suy nghỉ vẩn vơ ý tưởng không tập
trung. Tôi cố nằm niệm Phật và trông chờ trời sáng để xem số phận của mình rồi
sẽ ra sao! Nhưng bất ngờ, sáng sớm hôm sau, có hai chiếc xe du lịch chạy đến
phòng cảnh sát hành sự, tôi trông thấy có 4 người lạ xuất hiện, họ ăn mặc
thường phục trông rất gọn gàng đi ngang và ngó vào phòng giam của chúng tôi.
Sau đó họ quay lại ra lệnh cho công an trại giam, bảo 21 người chúng tôi phải
mặc quần áo nhanh chóng ra xe, hai người chung một chiếc còng số 8, khi ra tận
xe lúc ấy chúng tôi mới được thông báo là phiên tòa đã bị đình hoãn và chúng
tôi lại quay về trại giam Cà Mau.
Ba
tháng sau, tôi nhận được quyết định và bản cáo trạng thứ hai xử theo sắc luật
03 khoản A+B, những người đồng tù cho biết những điều khoản như vậy hy vọng là
án chung thân, tuy nhiên cũng chưa chắc chắn thoát khỏi án tử, duy có điều địa
điểm xét xử tại tòa án, chứ không phải công khai tại thị xã Bạc Liêu như trước.
Lúc bấy giờ anh,chị em ở các phòng giam lại một lần nữa gởi tặng quà biếu cho
21 người chúng tôi để liên hoan đưa tiễn. Mọi người còn gởi quà kèm theo nhờ
tôi chuyển đến biếu cho các anh em đang ở phòng tử hình nếu tôi bị án "Tử"
chuyển sang qua ở chung bên ấy. Nơi đó dành riêng cho những người mang bản án
cao nhất, bản án cách ly vĩnh viễn với xã hội. Trước nhất là bị cách ly khỏi
nhà giam chung, bị còng cả hai tay và hai chân suốt ngày đêm, họ đang đợi hoặc
là được tha tội chết để xuống án chung thân hay là sẽ bị đem đi hành quyết. Thế
là 21 người chúng tôi có dịp trở lại phòng cảnh sát hình sự lần thứ ba.
Khi phiên tòa khai mạc, tôi nhìn
thấy tại phòng xử án có nhiều người vào ra liên tục, có nhiều đồng bào đến tham
dự phiên tòa trong đó có thân nhân của 21 người chúng tôi cùng các phật tử, xúc
động nhất là có nhiều phật tử lão thành tuổi gần 80 mươi, cũng lặn lội từ Ấp
Cái Dầy Xã Châu Hưng đến đây. Mọi người nhìn thấy tôi với đôi còng trên tay họ
sụt sùi nức nở, nhiều người xin phép anh công an đứng gác gởi biếu cho chúng
tôi ít quà, tiền… Khi tòa bắt đầu xét xử, trước nhất họ hỏi về lý lịch bản thân
của từng bị cáo, sau tới phần đối chất, gạn hỏi… tôi luôn là người bị gọi sau
cùng. Hôm ấy trước vành móng ngựa, tôi nhìn thẳng và xoay hướng đối diện các
ông viện kiểm sát, ông chánh án và hội thẩm… Tôi hỏi vặn ông chánh án Ung Ngọc
Uyển rằng: "Kể từ ngày 15-6-1976, có hai phái đoàn do ông Phạm Hùng là bí
thư Đảng bộ Miền Nam, đại diện Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và chính
phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, còn ông Trường Chinh là đại
diện cho Miền Bắc Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hai bên đã tổ chức một cuộc
hiệp thương chính trị, để thống nhất tổ quốc, thống nhất hai miền Nam Bắc. Kể từ
ngày này chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã hợp nhất trở thành nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, có chung quốc kỳ, quốc huy, huy hiệu, quốc ca… Và lá cờ Mặt trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam đã bị khai tử. Thế thì tại sao quyết định khởi tố tôi lại
ghi sắc luật 03 ký ngày 10-11-1967 của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa
Miền Nam Việt Nam tức luật trong thời kỳ chiến tranh.
Như
vậy, Hội đồng xử án hôm nay xin cho biết quý vị ngồi đây là đại diện cho ai?
Đại diện cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam hay đại
diện cho nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam?". Lúc ấy ông chánh án
Ung Ngọc Uyển, một tay trí thức thời Pháp, em ruột của ông Ung Văn Khiêm,
nguyên Bộ trưởng bộ ngoại giao nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cả hai anh em
đều du học tại Pháp về, ông Ung Ngọc Uyển cũng là một tay lý luận già dặn và
lão luyện có nhiều năm trong nghiệp vụ xử án, vội vàng lanh trí giải thích
rằng: “Tất cả những điều bị can hỏi và
trình bày rất đúng … cũng chính ngày 15-6-1976 tất cả các sắc luật của hai
chính phủ Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam và Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa đã hệ thống hóa pháp luật trở thành bộ luật chung của nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Sở dĩ trong giấy quyết định không ghi rõ vấn đề này là
do sự hành văn sai sót của thư ký tòa, mà tòa án chúng tôi sẽ kiểm điểm lại
sau”.
Trong phiên tòa này ông Ung Ngọc Uyển còn
hỏi tôi: "Bị cáo Thích Thiện Minh có
thấy việc làm của mình gây ra tác hại cho nhân dân hay không?". Tôi
trả lời: "Bất cứ tổ chức chính trị
nào đấu tranh cũng đều dựa vào nhân dân, vì dân là gốc, dựa vào sức mạnh của
nhân dân, cùng nhân dân đấu tranh để đem đến quyền lợi thiết thực và ấm no hạnh
phúc thật sự cho nhân dân, mục đích của tôi cũng như thế. Nếu có điều gì lỡ gây
ra tác hại cho nhân dân đi chăng, đó là việc ngoài ý muốn của tôi mà thôi!".
Ung Ngọc Uyển hỏi tiếp: "Bị cáo có
thấy việc làm của mình có tội với nhân dân hay không?. "Tôi biện minh
rằng: “Thưa quý tòa, tôi thấy có lỗi với
nhân dân! (lúc này cả hội đồng xử án gật đầu ra vẻ tâm đắc…)sở dĩ tôi có lỗi
với nhân dân là vì việc làm của tôi thất bại quá sớm, cho nên dân khổ lại làm
khổ thêm, dân đói lại làm đói thêm đó là vì trách nhiệm của mình chưa tròn với
dân với nước, một trong tứ ân mà người con Phật phải đáp trả, chứ nếu thành
công thì chắc chắn hôm nay tôi không đứng trước vành móng ngựa này đâu!
Khi
nghe tôi trả lời như thế, ông Ung Ngọc Uyển ra lệnh cúp micrô và ông ta dùng
những lời mạt sát nặng nề, cho tôi là bọn ma vương tà giáo núp bóng đạo hại đời,
phản bội tổ quốc. Kết quả qua hai ngày xét xử, toà thông báo dừng nghỉ 20 phút
để nghị án(nói nghị án, chứ thực ra các ông Tòa vào phòng bên trong uống nước,
vì họ đã định sẳn bản án rồi! Sở dĩ tôi biết được là gì chính mắt tôi trông
thấy họ ngồi uống nước, hút thuốc trong lúc tôi giả vờ xin đi tiểu) sau 20 phút
giải lao, ông Ung Ngọc Uyển Chủ tọa phiên toà đã nhân danh luật pháp nước
CHXHCNVN và tòa án tỉnh Minh Hải tuyên bố: “Tòa
án nhân dân tỉnh Minh Hải căn cứ vào điều… khoản A+B…của sắc luật 03 được ban
hành ngày 10-11 năm 1967 của Chính phủ CMLTCHMNVN đã cứu xét và áp dụng hết
chính sách đối xử với bị cáo Thích Thiện Minh và kết án chung thân”.
5. RA TÒA PHÚC
THẨM.
Sau
khi ra tòa được vài tháng thì trại giam Cà Mau được lệnh di dời về trại giam
Cây Gừa tại Ấp 5, xã Thạnh Bình, huyện Giá Rai, tỉnh Minh hải. Trại này giam
giữ khoảng 1000 người tù cách trại giam 300 mét là trại cải tạo Cây Gừa. Trại
này giam giữ trung bình 5-6 ngàn người có khi lên đến 10 ngàn người, nhất là
thời kỳ tập trung cải tạo. Tên giám thị trưởng thường gọi là “Tám Y” cấp bậc
trung tá, nơi đây đã từng giam giữ các tù nhân tập trung cải tạo, binh lính, hạ
sĩ quan, sĩ quan và viên chức chính quyền chế độ cũ. Đông nhất là thời điểm
người người ồ ạt kéo nhau đi vượt biên tìm tự do, tìm sự sống… trung bình mỗi
ngày bắt vào trại vài trăm người, và mỗi ngày cũng có thể thả 5-7 chục người là
việc bình thường, phần lớn là những trẻ em, người quá già yếu bệnh tật, phụ nữ
có thai… Còn người khỏe mạnh cũng được thả nếu có tiền hay vàng lo lót, cho nên
ông trưởng trại và Ban chỉ huy ai cũng giàu có kếch sù. Còn trại giam Cây gừa
trưởng trại là Đại úy Võ Văn Tiến, hai ông quan này nuốt tiền như hạm đói, bản
chất nham hiểm, ác độc, tham lam vô cùng…
Cây
Gừa là cánh đồng lúa mênh mông bát ngát, hàng nghìn tù nhân kể từ sau 30-4-1975
đã bị áp giải đến đây, ngày đêm lao động khai phá gian nan, ra sức xây dựng từ
buổi ban sơ cho đến khi được tươm tất, có nề nếp, có nơi ăn chốn ở tương đối
thì đã có biết bao người bỏ xác, và bao mồ hôi xương máu của tù nhân đổ xuống
mảnh đất dọa đày này! Chung quanh trại tù có nhiều nấm mồ của tù nhân ngã xuống
sau những lần phản đối đấu tranh trong tù đã bị công an trại giam bắn ngay tại
chỗ. Tôi còn nhớ chỉ sau ngày 30-4-1975 vài hôm, thì ông xã trưởng chính quyền
cũ thường được gọi là (ông xã Điểm) ông xã này trước kia thường bắt nhiều việt
cộng ban đêm bò ra gài mìn phá đường, phá lộ giựt sập cầu và rãi truyền đơn… Đến
khi Sài Gòn đổi chủ, việt cộng tiếp quản chính quyền thì ông xã Điểm bị đem xử
tử tại xã. Trước khi xử bắn họ tập họp dân lại để kể tội ông, dân theo Việt
cộng dùng cây, kẻ dùng đá, đòn gánh đánh đập túi bụi, đầu cổ ông bị giập nát,
mình đầy máu me, máu tuôn chảy đầm đìa lênh láng mà họ còn không buông tha.
Trong khi hai tay bị trói chặt, miệng nhét đầy giẻ và thêm một trái chanh rồi
bịt miệng bằng một chiếc khăn đen, đã vậy mà hai ba người còn dùng mấy cục đá
thật to chạy đến đập vào đầu ông xã Điểm một lần nữa, trước khi lôi kéo thân
ông đến một gốc cây họ buộc thật chặt và bắn ba phát súng. Khi nạn nhân ngã qụy
tên trưởng toán đến bên xác nắm tóc lên và nả vào màng tang một viên đạn gọi là
“ân huệ sau cùng” trước khi kéo xác lấp vào hố.
Xin
quay lại từ khi tôi dời đến trại Cây Gừa hơn một tháng sau, tôi nhận được giấy
quyết định phúc án của tòa phúc thẩm thành phố, ký tên là thẩm phán Hoàng Vi
Định. Thế là một lần nữa tôi có rất nhiều nghiệp duyên, tức lần thứ tư tôi quay
lại nhà giam của phòng cảnh sát hình sự tỉnh, tôi tạm ở một đêm tại đây, đến
sáng hôm sau phiên tòa phúc thẩm khai mạc. Đặc biệt lần này hội đồng xử án đều
là người Miền Bắc, chỉ có ông Viện kiểm sát là người Miền Nam. Tất cả đều ăn
vận những bộ vét tông đen rất oai vệ nhưng không giấu được nét quê mùa với bộ
mặt nham nhở hung ác. Từ người ngồi ghế chánh án cho đến hội thẩm nhân dân đều
có hàm răng đen khít rịt, không còn thấy kẽ hở. Tôi không giỏi về “Ma y hình
tướng” hay “Ma y thần tướng” nhưng nhìn thoáng sơ qua tôi biết đây là thứ thiệt
rồi! Tôi sợ bị ảo giác làm hoa mắt hoặc do trí tưởng tượng quá mạnh có thể nhìn
sai lệch chăng? Nên tôi cố chú tâm nhìn cho kỹ, tôi đoán các ông tuổi ước chừng
60 - 70 và tôi cũng được biết cách đây 70-80 năm, tục nhuộm răng đen còn duy
trì ở miền Bắc. Nhưng nay, hầu như đã thay đổi hoàn toàn, nếu còn chăng chỉ một
vài nơi nào đó của người dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc, hoặc giả khi
ngồi ghế quan tòa từ tòa án phúc thẩm trở lên hay giám đốc thẩm…cần phải nhuộm
răng đen để cho thấy cái "Uy Phong" của những tên đao phủ "Răng
đen Mã tấu" chăng?. Trong phiên tòa phúc thẩm này ngoài tôi, mẹ của tôi,
một đứa em trai của tôi là Huỳnh Hữu Nhiều còn chung quanh vỏn vẹn chỉ có 4 tên
công an áp giải và hội đồng xử án chỉ có 5 người gồm: Viện kiểm sát, Hai hội
thẩm nhân dân, Chủ tọa phiên tòa ghế chánh án và một thư ký Phiên tòa xét xử
không thông báo gia đình bị can, gần như xử kín. Sở dĩ mẹ tôi biết được là nhờ
đứa em chạy xe đạp (xe vua) tình cờ trông thấy.
Khi
đứng trước vành móng ngựa ông chánh án hỏi tôi "Động cơ nào thúc đẩy anh tham gia chống lại nhà nước Việt Nam".
Tôi trả lời rằng: “Vì thấy đồng bào Việt
Nam quá đau khổ, cuộc sống mất tự do, quyền con người không được tôn trọng,
GHPGVNTN bị khủng bố, đe doạ, các tôn giáo có nguy cơ bị tiêu diệt. Bởi vì chủ
nghĩa Mác LêNin cho tôn giáo là nha phiến, thuốc phiện cần phải bài trừ, ngôi
chùa tôi đang trụ trì bị chính quyền địa phương hăm dọa, cưỡng chiếm làm cơ quan
nên tôi đứng lên đấu tranh đòi lại sự công bằng". Ông Chánh án trừng
đôi mắt rồi phân tích, lên lớp đủ điều rất bài bản, ông ta nói: "Nào là do hậu quả nặng nề của chiến
tranh, của chính quyền Sài Gòn, của đế quốc Mỹ để lại .. Nào là đất nước đang
trong thời kỳ qúa độ, cán bộ cơ sở trình độ còn hạn chế … Bị can không biết
thông cảm cho hoàn cảnh của đất nước để góp phần xây dựng xứ sở mà còn lại nhen
nhóm chống đối, âm mưu lật đổ chính quyền, luôn có tư tưởng phản động, là mơ
tưởng hão huyền ôm chân đế quốc Mỹ và bọn sen đầm quốc tế hiếu chiến … Nào là
hàng vạn ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn, quân đội viễn chinh Mỹ có đủ các loại
khí, vũ trang hiện đại, xe tăng, tàu chiến, máy bay… mà còn phải cút chạy, còn
đầu hàng vô điều kiện, thì những tổ chức chỉ nhen nhóm 5-3 mươi người bất mãn,
mang tư tưởng căm thù chế độ, không có tấc thép trong tay thì làm được gì, chỉ
là lấy trứng chọi đá và chỉ đưa mình vào miệng cọp mà thôi!”… Tên chánh án 'Lên
lớp' gần 20 phút, nhiều lần tôi đưa tay lên để có ý kiến, để phản biện nhưng
ông ta từ chối hoặc né tránh sự đấu khẩu giữa hai bên.
Cuối cùng phiên tòa kết luận, giữ
nguyên y án chung thân đối với tôi và đề nghị tòa án nhân dân Minh Hải không
được hủy bỏ các chứng cứ và hồ sơ vụ án của bị can, mà cần giữ lại vào kho lưu
trữ. Đồng thời nghiêm khắc kiểm điểm tòa án nhân dân tỉnh Minh Hải (tòa án sơ
thẩm) vì xét xử vụ án của Thích Thiện Minh chưa được thích đáng. Nghe đến đây
tôi biết các ông đao phủ răng đen này cũng muốn tặng cho tôi vài phát súng và
một viên đạn ân huệ sau cùng lắm, bởi lời phát biểu của ông toàn là “đao to búa
lớn”, sặc mùi hận thù giai cấp. Phiên tòa vừa kết thúc, ngay sau đó hai tên
công an chạy đến còng đôi tay tôi rồi áp giải lên xe, tôi chỉ kịp quay lại phía
sau hàng ghế để nhìn mẹ, nhìn em trai.
Tôi thấy mẹ tôi đang lấy khăn tay
lau nước mắt … tóc mẹ tôi bạc trắng cả mái đầu, em trai tôi nước da sạm nắng,
thân gầy ốm và cao lêu nghêu vì hàng ngày em phải đạp xe lôi vua bằng chính đôi
chân của mình, phải đổ thật nhiều mồ hôi mới có đồng tiền đem về mua gạo. Ngoài
ra em còn dành dụm chút ít đưa cho mẹ đến thăm nuôi tôi. Mỗi khi tôi nhận tiền
thăm nuôi mẹ tôi gởi cho, tôi biết đây là máu, mồ hôi của em tôi đấy! Sau khi
xử phúc thẩm xong trên đường áp giải tôi về trại giam Cây Gừa xe dừng lại tại
chợ “Hộ Phòng" đây là một thị trấn sầm uất, có khá nhiều phố xá, trước kia
quang cảnh thật nhộn nhịp, người buôn, kẻ bán vào ra tấp nập, xe cộ đông đúc.
Nhưng bây giờ sau khi cộng sản chiếm chính quyền mới 6 năm thôi mà quang cảnh
tiêu điều, hàng hóa it ỏi, người đi thưa thớt trông rất buồn tẻ. Vài tên công
an xuống xe rẽ đám đông của tốp học trò đi ngang qua, họ tấp vào phố chợ; trên
xe chỉ còn lại vài tên đứng canh giữ tôi.
Bỗng từ xa xa, quý đồng bào cô bác
đi chợ nhìn lên trên xe trông thấy đôi tay tôi đang bị còng, chung quanh có
công an đứng gác. Mọi người biết là tù nhân thôi! chứ chẳng biết tôi là ai và
mang tội gì cả. Họ liền khều tay rủ nhau kẻ mua quà bánh, người mua thuốc lá,
dầu gió…cùng nhau mon men đến gần xe để quăng lên cho tôi. Mấy tên công an la
hét xua tay và nói: “Mấy bà không được
đến gần xe, không được cho quà phạm nhân! Mấy bà biết anh ta phạm tội gì không?
Tội phản động, âm mưu lật đổ chính quyền đấy! mới vừa xử án chung thân đấy !” Trong
đám đông có một bà trả lời: "Tội gì
mặc kệ chúng tôi không cần biết, miễn thấy kẻ tù tội, hoạn nạn là tụi tôi cho
thôi!”. Có một cụ bà tuổi trên 60 đi bên đứa cháu gái, bà lên tiếng “Tụi mầy nói chú ấy là tội âm mưu lật đổ
chính quyền hả! Lật đổ chính quyền là đúng, là phải rồi, chứ tụi mày đã làm
nhân dân khổ quá nhiều rồi, mà để cho tụi mày cầm quyền hoài, thì chắc nhân dân
từ từ phải chết lần chết mòn hết, chứ không còn ai sống nổi đâu!”. Lúc ấy
hai tên công an vội vã đóng bửng xe và kéo tấm bạt bằng cao su phủ xuống. Ngồi
trên xe tôi suy nghĩ lại mấy lời nói của bà con cô bác vừa qua, tôi có thể
quyết đoán được lòng dân hiện tại đang mong muốn những gì rồi!
6. TRẠI
CẢI TẠO CÂY GỪA…
Sau
khi ra tòa phúc thẩm giữ y án chung thân. Một hôm ông Lâm Quang Dũng người kiểm
tra kết cung lần cuối trước khi khởi tố vụ án, người mà tôi cho là ông
“Thiện”đã đến tận phòng tôi, gặp tôi ông ta nói: “Anh Ba Minh ! anh có muốn chuyển sang trại cải tạo Cây Gừa để đi lao
động cho có sương, có nắng không? Chứ ở đây thiếu ánh nắng vì tối ngày chỉ ở
trong phòng hoài, anh sẽ bị gò bó tù túng dễ sinh bệnh lắm!”. Tôi trả lời: “Cảm ơn ông Ban là nhà tu ở đâu cũng được,
vì nơi nào có người tin Phật thì nơi ấy cũng cần có hình bóng của thầy tu và
ngược lại nơi nào có hình bóng của thầy tu thì nơi ấy cũng có người tin Phật.
Tuy nhiên muốn được thuận duyên ở trong nhà tù thì cũng không dễ dàng gì! thôi
thì tùy ông Ban vậy!”. Ông ta nói tiếp: “Ngày
mai tôi sẽ đề xuất đưa một số người thành án chuyển sang bên ấy để đi lao động,
anh hãy chuẩn bị thu xếp đồ đạc, tư trang đi”. Sau đó ông ta từ giã ra cửa
và còn ngoái lại miệng mĩm cười nói: “Cố
gắng giữ sức khỏe nhé anh Ba Minh”. Hai ngày sau tôi cùng một số anh em
đồng tù chuyển sang trại cải tạo Cây Gừa. Đến đây họ khám xét, lục soát rất kỹ
lưỡng tư trang và thân thể, họ tịch thu khá nhiều đồ đạc, rồi đưa chúng tôi vào
nhốt ở một khu giam riêng, cách ly hẳn tất cả mọi người trong trại. Khi tôi đến
đây thì gặp lại một số người quen đã từng ở chung tại các trại giam Bạc Liêu,
Cà Mau, họ cũng đều là tội chính trị cả. Khu vực giam riêng này rất kiên cố và
kiểm soát chặt chẽ muốn vào tới phòng giam phải qua ba bức tường cao, bên trên
đổ nóc bằng có cả một tiểu đội công an ăn ở, sinh hoạt, canh giác ngày đêm.
Phía dưới có hai dãy, mỗi dãy 6 phòng mặt hậu liền nhau cùng chung một vách,
dãy phòng phía trước giam giữ tù chính trị trong nước, dãy phía sau giam giữ tù
chính trị hải ngoại, gồm lực lượng quân sự và bán quân sự, thuộc tổ chức của
hai ông Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Sở dĩ tổ chức này bị bắt là do cộng sản
Việt Nam đưa công an đặc tình (tình báo đặc biệt ) cài vào đi vượt biển, để
sang Thái Lan xâm nhập vào các tổ chức chính trị hoạt động phản gián. Theo lời
nhiều người kể tên công an được cài cắm phá vỡ tổ chức này tên Thậm còn gọi là
Tám Thậm cấp bậc trung úy là công an trại cải tạo Cây Gừa.
Hiện
nay anh ta mang quân hàm cấp bậc Đại tá, nguyên là giám đốc công an tỉnh Cà
Mau. Đại để những lời thiên hạ đồn đại bàn tán về tên Tám Thậm như sau: Tám
Thậm là một trung úy có trình độ học vấn thấp, tánh tình ngang bướng, kênh
kiệu, ăn nói hằn học, vẻ mặt vênh váo, trông rất bậm trợn với hàm râu quai nón.
Lúc đang công tác tại trại cải tạo Cây Gừa, tên này thường bị nội bộ trại giam
kiểm điểm liên tục vì thường xuyên vi phạm kỷ luật nội bộ và có nhiều khuyết
điểm về mặt đạo đức, công tác. Nhiều lúc anh ta biểu hiện sự bất mãn, nên
thường có những mối quan hệ tiếp xúc rất gần gũi với các sĩ quan của chế độ cũ
đang học tập cải tạo. Ở trại Cây Gừa những người tập trung cải tạo bị cấm uống
rượu, nhưng Tám Thậm thường xuyên mua rượu và tổ chức những cuộc nhậu nhẹt say
sưa với các sĩ quan này. Thực ra đây chỉ là màn dàn dựng để anh em tù cải tạo
của chế độ cũ tin tưởng Tám Thậm để hắn xâm nhập mà thôi.
Vì thế từ chỗ quen biết, đi dần đến chỗ thân tình. Tám Thậm đã cùng với các sĩ
quan nầy lấy tàu của những người vượt biên bị bắt neo đậu tại trại, tổ chức
vượt biên sang Thái. Lúc đầu, anh ta có ý định giúp các sĩ quan trốn trại ra đi
theo sự sắp xếp của lãnh đạo đảng ủy. Thế nhưng trong lòng anh ta cũng hi vọng
rằng các sĩ quan sẽ giới thiệu, công lao giúp đỡ của anh với Cao ủy Tỵ nạn của
Liên Hiệp Quốc hy vọng mình sẽ được phỏng vấn sang định cư ở nước thứ ba. Nhưng
khi đến Thái thời gian hơn 2 năm, mọi người cùng chung chuyến hải trình với anh
đều lần lượt được phỏng vấn ra đi định cư nước khác, còn anh chỉ biết chờ đợi …
anh cảm thấy bị hụt hẩng, thất vọng. Lý
lịch ba đời là cộng sản có truyền thống cách mạng của gia đình, Cao ủy Tỵ nạn
khó cứu xét, thế là ước mơ của anh đã vượt khỏi tầm tay và giấc mộng đẹp của
anh cũng không thành sự thật. Vì vậy khi nghe được lời kêu gọi tham gia vào tổ
chức chính trị của Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh anh ta sốt sắng ghi tên tình
nguyện tham gia tổ chức. Anh được tổ chức nầy cho học tập, huấn luyện và tài
trợ đủ mọi mặt … đến khi có chiến dịch “Chuyển lửa về quê nhà" anh cũng
được lệnh vận chuyển, vũ khí, tiền bạc, quân trang quân dụng của tổ chức này về
mật cứ ở trong nội địa Việt Nam, anh là người được phân công cầm cờ đi tiên
phuông hướng đạo. Khi tàu cập bến, anh được giao nhiệm vụ bò lên bờ trước để do
thám tình hình, nên thay vi do thám anh ta đã thông báo cho cơ quan an ninh và
chánh quyền cơ sở nơi tàu cặp bến. Công an, quân đội và du kích địa phương ồ ạt
đến bao vây, chặn bắt và tịch thu tất cả vũ khí, máy móc, điện đài và một số
tiền giả khổng lồ. Kể từ đó anh được xem như là một vị anh hùng vì đã lập được
đại công, anh bắt đầu ba hoa, khoe khoang thành tích và vỗ ngực tự hào, huênh
hoang kiêu ngạo là tự chính anh đã tìm mọi cách để sang Thái xâm nhập vào các
tổ chức phá vỡ những âm mưu lật đổ chế độ từ hải ngoại.
Nhờ
ba tấc lưỡi khéo nói anh tỏ ra mình là người có chí lớn, vì đại cuộc, vì quyền
lợi sống còn của nhân dân, của Đảng, báo chí lúc ấy cũng hết lời tâng bốc ca
ngợi cho là nhờ sự giáo dục và rèn luyện của Đảng nên anh Tám Thậm đã làm nên
một chiến công hiển hách đem về vinh quang cho đất nước. Thỉnh thoảng trong các
tiệc rượu anh còn ví mình đã noi gương Bác Hồ một thân một mình bôn ba xuất
dương tìm đường cứu nước. Từ đó anh được phong quan tiến chức thật nhanh. Anh
đã lừa được mọi người và thành công chỉ là nhờ "Chủ nghĩa cơ hội" chứ
không phải là "chủ nghĩa xã hội". Lúc nào anh cũng hãnh diện với câp
bậc được phong thưởng về tài trí của mình nên luôn tỏ vẻ hống hách kiêu căng và
xem thường mọi người, của một ông công thần. Nhận xét trên đây của một số người
từng là đồng chí, từng công tác chung với anh thuật lại, chứ anh không phải là
B2 gì cả, nhờ có công nên anh được xem xét đề bạt rút về ngành này. Bởi tài
năng của anh rất là bình thường, trình độ văn hóa rất tồi…đảng cộng sản không
dùng đại loại những tên như vậy để làm công tác tình báo quốc tế bao giờ. Đôi
khi, người đời cũng thường thốt lên"Hay cũng không bằng hên mà!".
Nãy
giờ mãi mê đi khá xa xin quay về khu kỷ luật giam riêng nơi tôi ở, như tôi đã
trình bày, trên nóc bằng nhà giam riêng có hơn một tiểu đội công an trực tiếp
ăn ngủ canh gác ngày đêm. Nhất cử nhất động của chúng tôi đều có sự kiểm soát
của họ, trung bình 2-3 tuần dãy phòng phía trước sẽ được mở cửa cho tù nhân ra
ngoài sân tắm nắng một lần vào buổi sáng, riêng phòng tôi luôn bị trù dập nên
ít được tắm nắng như các phòng khác… còn dãy phòng phía sau của tổ chức hải
ngoại họ được hưởng tiêu chuẩn chế độ, vật dụng cần thiết được cấp phát tạm
tương đối, tắm nắng mỗi ngày hai lần sáng, chiều.
Người tù từ hải ngoại về bị bắt trong thời
gian làm việc để điều tra có chính sách ưu đãi hơn vì nhiều lý do. Thỉnh thoảng
các anh em thông tin cho chúng tôi biết những tin tức từ hải ngoại và ngược lại
chúng tôi cũng thông báo cho họ mọi hiện tình của đất nước. Trong số những anh
em này có một vài người đã biết tôi cách đây khá lâu, nhưng tôi đã quên bẵng,
sau khi được nhắc lại thì ra họ một thời cũng đã từng ở nơi này, lúc bị bắt đi
tập trung cải tạo, chính quyền mượn trường học Cây Gừa làm nơi giam giữ chứ lúc
ấy chưa thành lập nhà tù như hiện nay.
Theo cộng
sản vô thần bản tánhNên Phật
trời thần thánh chẳng tinLại dùng
lời chia rẽ miệt khinhPhá Thánh
Thất, Chùa, Đình, ngôi Tam Bảo Phá Nhà
Thờ bắt Cha, Thầy đi cải tạo chứng tỏ rằng việc đạo có âm mưu dùng trường học
làm khám để nhốt tùBao tội lỗi oán thù cao như núi! Câu chuyện họ gợi nhắc lại
có liên quan đến tôi như sau: Đó là thời gian 2-3 năm, trước khi tôi bị bắt,
tôi được Hòa Thượng Thích Trí Đức chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Bạc Liêu phân
công tôi trực tiếp đến chùa Từ Quang, Ấp Cây Gừa, xã Thạnh Bình, huyện Giá Rai,
tỉnh Minh Hải để mở phòng thuốc Nam, châm cứu từ thiện. Ngôi chùa này chỉ cách
nơi tập trung cải tạo tức trường học Cây Gừa khoảng hơn 1 km. Hằng ngày bộ đội
của 2 tiểu đoàn U Minh 1 và 2 thuộc tỉnh đội Minh Hải đến trại cải tạo lãnh tù
nhân đi lao động để xây dựng doanh trại cho 2 tiểu đoàn.
Tù nhân xếp hàng một, đi kéo dài gần
nữa cây số, hai bên đường đều có bộ đội canh giữ nghiêm ngặt. Cấm không được
quan hệ hay tiếp xúc bất cứ người dân nào trên đường đi. Lúc họ đi ngang chùa
tôi trông thấy hầu hết là những người đứng tuổi, nước da đen nám, thân thể gầy
ốm, gương mặt hốc hác có người đi lảo đảo vì đang bị bệnh, nhiều người mang dép
khác quai, đa số quần áo đều bị rách nát; khâu vá nhiều mảnh vải khác màu, hoặc
lấy dây buộc tạm cốt sao cho lành lặn, ấm kín thân thể để chịu đựng với mưa
nắng hàng ngày. Tôi tìm hiểu thì biết phần đông là gia đình ít đến thăm nuôi,
ăn uống thiếu thốn không đủ chất dinh dưỡng, bệnh đau không đủ thuốc, nước tắm
cũng thiếu, hằng ngày không có đủ nước sạch để uống. Nhiều người bị bệnh sốt
rét, phù thủng, bại liệt đang nằm quằn quại, rên siết dưới nền nhà, không có
giường, chiếu, chỉ có đồng tù là nguồn động viên an ủi, nhưng đa phần ai cũng
khổ cả. Thấy tình trạng như thế tôi bèn tìm một phật tử có quen biết với ông
Tổng trực ban cấp bậc Thượng úy tên Ba Đô, còn gọi là Ba Giò để ngỏ ý: “tại chùa Từ Quang có hốt thuốc Nam, châm
cứu. Nếu anh em cải tạo nào có bệnh xin quý vị vui lòng cho phép họ đến chùa
tôi sẽ giúp điều trị bệnh miễn phí”. Mấy ngày sau ông Thượng úy Ba Đô trả
lời rằng: “Sau khi tham khảo ý kiến của
lãnh đạo, nhà trại sẵn sàng cho phép cải tạo viên có bệnh được đến chùa điều
trị với điều kiện nhà chùa phải làm đơn gởi đến Ban lãnh đạo trại cải tạo Cây
Gừa tỉnh Minh Hải, nên nói rõ nội dung”.
Thế là tôi phải làm đơn "Xin
phép được làm phước" sau đó khoảng vài hôm, mọi người cải tạo được đến
chùa trị bệnh, trong số ấy có nhiều sắc lính khác nhau như: Cảnh sát đặc biệt,
an ninh quân đội, trưởng đồn, quân cảnh, biệt kích Mỹ có đủ cả sĩ quan lẫn hạ
sĩ quan… Mỗi
ngày có khoảng 5-10 người đến chùa trị bệnh, khi hốt thuốc xong ra về sư cô
Thích Nữ Huệ Giác Trụ trì chùa Từ Quang còn biếu cho mỗi người một bọc tương
hột, bánh dừa, trái cây. nón lá hoặc cao su che mưa. Thậm chí thêm một cục
thuốc gò hay thuốc tấp cho anh em đỡ buồn. Điều an ủi nhất đối với mọi người là
mỗi tuần tôi về Bạc Liêu tìm địa chỉ gia đình của họ thông báo để khi mọi người
đến trị bệnh sẽ gặp người thân của mình hàn huyên tâm sự thoải mái. Nhưng đây
chỉ là việc giúp đỡ kín đáo thôi, chứ chẳng dám công khai, nếu công an biết
được là bị cấm ngay và nhà chùa còn bị tai họa nữa! Có người sau khi mãn học
tập cải tạo về rỗi rãnh đưa gia đình vợ, con đến chùa lễ phật, thăm viếng và
nói lời cảm ơn. Không những họ đến chùa Từ Quang nơi tôi hốt thuốc để cảm ơn mà
còn đến cả ngôi chùa Vĩnh Bình, ngụ tại ấp Cái Dầy, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh
Lợi, tỉnh Bạc Liêu, nơi tôi làm tọa chủ nữa!
Cho
đến giờ phút này tại gia đình, lúc tôi đang ngồi ghi lại hồi ký sau 26 năm tù,
tôi vô cùng bất ngờ và thật xúc động khi đón nhận được quà biếu, tịnh tài từ
hải ngoại gửi về ít nhiều để giúp tôi điều trị bệnh. Trong đó có những người
tôi chưa quen và có những người đã quen biết tôi, có những người đồng hương tại
Bạc Liêu, hiện định cư tại Hoa Kỳ, họ biên thư về nhắc lại chuyện cũ ngày xưa…
Lúc
họ đang bị tập trung cải tạo tại trường học Cây Gừa. Sau đó có người đi theo
diện "HO", có người vượt biên sang nước khác. Theo tôi nghĩ, với qui
luật nhân quả và báo ứng rất nhiệm màu, rất công bằng, biết đâu cũng chính nhờ
những việc làm lợi tha nho nhỏ này mà suốt 26 năm tù mỗi khi tôi đối diện trước
cơn hoạn nạn hay quẫn bách khó khăn, thì lúc ấy tôi lại được quới nhơn tận tình
giúp đỡ như gặp được Phúc tinh, như có sự ứng hiện của các vị thiên thần, thiên
sứ của các đấng thiêng liêng giúp tôi thoát qua được cảnh khốn khổ nguy nàn.
Tôi tuyệt đối tin tưởng sự báo ứng
của luật nhân quả. Cũng như tôi đã trình bày trên, sự giúp đỡ của Hòa Thượng
Thích Huyền Quang, Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng
viện Hóa Đạo GHPGVNTN, quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Hội ân Xá Quốc tế ở
Luân Đôn, quý chư tôn pháp quyến và những nhà hảo tâm, những mạnh thường quân,
những người đồng hương Bạc Liêu trong đó có những anh chị thân nhân con của
người cô thứ Năm, có người gởi trực tiếp, có người gián tiếp thông qua đường
bưu điện bảo đảm hoặc Cô Đoan Trang giám đốc của đài phát thanh Quê Hương hay
ông Võ Văn Ái giám đốc phòng thông tin Phật giáo quốc tế hoặc GHPGVNTN tại các
Châu lục hải ngoại.…
Tôi xin ghi nhận những nghĩa cử cao
đẹp này là những tấm lòng vàng và xem đây là những dấu ấn mang nhiều kỷ niệm
đáng nhớ trong suốt cuộc đời hành đạo của mình. Sau 26 năm tù đày vừa được trả
tự do, trong lúc thân thể bệnh hoạn, gia đình đang khó khăn, mái chùa cũng
không còn, mọi việc khá khó khăn trong buổi ban đầu để hội nhập với xã hội có
quá nhiều mới mẻ tưởng chừng như khá xa lạ. Sự hỗ trợ của quý ân nhân là động
lực khích lệ tinh thần, là niềm an ủi lớn lao không có bút mực nào tả hết. Đây
chính là nguồn động viên cổ vũ, mạnh mẽ về tinh thần để làm tăng thêm nghị lực
của những ai đã, đang và sẽ dấn thân đấu tranh vì dân tộc và đạo pháp. Tôi hằng
cầu nguyện cho những bậc ân nhân luôn được vạn sự bình an, muôn điều lợi lạc.
a. Nghiệp từ kiếp trước (Túc trái), tiền hung
hậu kiết:
Xin
nói về khu vực giam riêng nơi chúng tôi đang bị cách ly tại trại cải tạo Cây
Gừa. Bản thân tôi luôn nhớ mãi một câu chuyện như còn in trong trí như sau: Trong
số một tiểu đội trực tiếp canh gác ngày đêm trên nóc bằng phòng giam riêng nầy
có một anh cán bộ còn rất trẻ tuổi, khoảng 19-20 trình độ văn hóa lớp 8-9 tên
là “Tài”. Anh ta rất ác cảm với cá nhân tôi, có lẽ từ kiếp trước, tôi với anh
ta có những thành kiến hay gieo những oan nghiệp gì cho nhau nên kiếp này còn
gặp lại! Tôi trông nét mặt, cung cách, cử chỉ dáng đi đứng của anh ta là tôi
không thể có cảm tình được rồi, còn anh ta cũng vậy! Anh tâm sự với vài bạn
đồng tù chính trị trong các phòng bên cạnh như anh Thái Kim Lái, Đặng Văn Hai,
Huỳnh Ngọc Châu là anh không cần trông thấy tôi mà chỉ nghe tiếng nói của tôi
thì anh đã phát ghét rồi, mặc dầu tôi chẳng có làm gì đụng chạm đến anh ta, tôi
là tù nhân còn anh là tên cai tù thế thôi. Bởi mỗi khi nhìn thấy dáng đi hống
hách kênh kiệu, nghe lời nói láu lỉnh, thô thiển của anh ta, tôi cho anh ta là
thuộc dạng tinh nghịch nên tôi chẳng muốn nhìn lâu.
Anh
ta cũng biết tôi chẳng ưa thích gì anh, từ đó mỗi khi gia đình tôi gởi quà
thăm, hôm nào đúng phiên anh ta trực, anh ta không mở cửa phòng cho đem vào mà
để giỏ thức ăn phơi nắng, phơi sương ngày đêm cho đến khi hư thối! còn các
phòng khác thì anh ta mở cửa bình thường, cũng như gia đình tôi có cho tiền gởi
lưu ký căng tin, anh cũng không hề thông báo để tôi biết mà định liệu chi tiêu.
Tôi cũng mặc nhiên, nhiều lúc suy nghĩ cũng cảm thấy bực tức, nhưng sau đó tôi
cho là nghiệp cảm mà thôi! Tài có một người anh rể cấp bậc trung úy là cán bộ
an ninh điều tra, ác ôn có tiếng cuả trại giam này. Hai vợ chồng vị trung úy
này ở nhà của cơ quan do trại giam cấp. Có lần vợ của viên trung úy tức chị
ruột của anh ta, sau khi sinh đứa bé đầu lòng thì bị bệnh sưng nhũ hoa (sưng
vú) căng phồng thật to màu đỏ sẩm, đau nhức vô cùng. Lúc bấy giờ thuốc Tây khan
hiếm, bệnh viện lại xa nên hai vợ chồng viên trung úy nghe dân chúng quanh vùng
giới thiệu rằng " Ở chùa Từ Quang Cây gừa cách đây chừng 2 cây số có một
ông thầy hốt thuốc nam, châm cứu hay lắm! Hai anh chị nên đến đó để nhờ ông
thầy chữa trị cho” mấy hôm sau hai vợ chồng vị trung úy đến chùa Từ Quang. Sau
khi hỏi thăm và tiếp xúc biết rõ hai vợ chồng vị trung úy đang công tác tại
trại cải tạo Cây Gừa, Bà Ni sư trưởng Thích Nữ Huệ Giác trụ trì chùa nói rằng: "Ông thầy Thích Thiện Minh bị ở tù ba
năm rồi, hiện đang ở trong trại của ông đấy! Hảy vào nhờ ông thầy ấy giúp
cho".
Khi
hai vợ chồng về đến trại giam tìm tên tôi biết được tôi đang ở phòng biệt giam
nơi người em vợ tức cán bộ trẻ rắc rối tên Tài đang canh giữ. Vị trung úy mới
bảo với Tài nhờ tôi giúp trị bệnh dùm cho chị ruột của anh ta. Sáng hôm sau,
bỗng nhiên tên công an Tài từ ngoài đi xăm xăm thẳng vào mở cửa phòng biệt giam
của tôi và nói: "Hôm nay trời nắng
tốt quá! Các anh ở trong phòng hãy ra sân tắm nắng đi!”. Rồi anh ta bỏ đi
lên trên nóc bằng, anh ta đi tới đi lui thỉnh thoảng ngó liếc xuống tỏ vẻ như
muốn nói điều gì. Tôi và các anh em trong phòng tất cả 5 người ra sân tắm nắng
mọi người ngó nhìn nhau, đều suy nghĩ ! hôm nay tên Tài sao cảm thấy lạ quá. Tại
sao thằng ranh con này hôm nay tốt thế! Đặc biệt là chỉ mở cửa phòng tôi mà không
mở cửa cho các phòng kề bên… Tôi đoán chừng anh ta muốn nói gì đây! Thật đúng y
như rằng, mấy phút sau anh cán bộ nhãi con này đến đứng ngay trên nóc phòng tôi
nhìn xuống trông dáng hiền lành, miệng mĩm cười nhưng với vẻ hơi ngượng và nói:
"Ông Ba Minh, cho tôi xin hỏi một
tí, bộ trước kia khi còn ở ngoài đời, chưa bị tù ông có hốt thuốc nam, châm cứu
ở chùa gần đây hả?". Tôi trả
lời: "Trước kia tôi không phải ở
ngoài đời gì cả mà ở chùa, tôi có hốt thuốc nam, châm cứu. ông hỏi để làm gì bộ
muốn điều tra lý lịch hả? Muốn làm việc với tôi thì phải có nơi có chỗ?"
. Anh cán bộ Tài miệng mĩm cười: "Tôi
hỏi để nhờ ông thầy giúp đỡ chứ không có điều tra lý lịch gì đâu, sao ông khó
quá vậy!". Tôi liền hỏi: "Ông
muốn nhờ tôi giúp đỡ gì?". Anh cánbộ Tài thuật lại đầu đuôi về việc vợ
chồng vị trung úy có đến chùa để nhờ trị bệnh và cuối cùng anh nhờ tôi có cách
gì giúp dùm điều trị bệnh cho chị ruột của anh ta. Khi hỏi rõ chứng bệnh tôi
bảo anh hãy mang lại 1 muỗng canh dầu dừa tôi sẽ làm thuốc trong vòng 5 phút,
nhớ thuốc này phết bằng lông gà, phết ngay chỗ sưng đau không nên cho bệnh nhân
biết là thuốc gì! Sau khi phết thuốc chỉ nữa giờ sau thì đã giảm sưng, giảm màu
đỏ và bớt căng phồng gần như hết đau nhức hoàn toàn… Ngay chiều hôm ấy anh cán
bộ rắc rối này đi xuống mở cửa phòng tôi nói lời cám ơn và báo tin rằng bệnh
của chị anh ta đã bớt thật nhiều rồi! Anh ta mời tôi một gói thuốc Capstan đầu
lọc, tôi không biết hút thuốc nhưng cũng nhận để mời các anh em ở chung phòng.
Kể từ đó anh cán bộ này bắt đầu vui
vẻ, thái độ hòa nhã! nói năng lịch sự, cung cách đàng hoàng không còn có cử chỉ
cá nhân với tôi như trước nữa ! dần dần tôi nhìn anh ta có cảm tình và dễ mến
hơn… b. Âm mưu vượt ngục tại trại cải tạo Cây Gừa bị
thất bại. Tôi ở
phòng biệt giam này gần 6 tháng, trong phòng gồm có 5 người, ba người mang tội
chính trị là Quách Văn Hoạch, án tử hình được tha tội chết, Trịnh Thanh Sơn, án
20 năm và tôi Thích Thiện Minh, án chung thân. Ngoài ra còn 2 thường phạm khác
là quân phạm là Nguyễn Văn Tấn trung úy đặc công được chuyển về làm xã đội
trưởng xã Vĩnh Mỹ huyện Vĩnh Lợi Bạc Liêu, án chung thân và Đỗ Thành Công ngành
kiểm lâm, án chung thân. Mặc dầu tội danh có khác nhau nhưng tất cả đều cùng
chung cảnh ngộ, nên rất đồng cảm, chia sẻ cho nhau những nỗi vui buồn, an ủi
giúp đỡ nhau trong lúc bệnh hoạn khó khăn.
Có thể nói san sẻ cho nhau từng hớp
nước uống, từng bát cơm, từng chiếc khăn lau mặt, từng viên thuốc cho đến vật
nhỏ nhất như cây kim, cọng chỉ… Nói tóm lại, từ vật chất lẫn tinh thần. Từ đó
mọi người thấu hiểu tâm tư của nhau là “những người tù đều có chung một khát
vọng đó là sự tự do”. Chúng tôi thỉnh thoảng nói đùa với nhau mà gần như nói
thật rằng: "Nếu ở tù dưới chế độ CS, bị mang án 20 năm hoặc chung thân mà
ngồi chờ cho tới ngày mãn án, thì cuộc đời chúng ta sẽ đen như mõm chó mực và
tương lai kể như bí ngõ” chẳng lẽ mình ngồi im mà chấp nhận số phận“Mạt vận
cùng đồ”chăng ? Từ một nhận thức chung đó mà 5 người đều nhất loạt đồng lòng quyết
tâm đào tường vượt ngục. Năm người sẽ cùng đồng hội, đồng thuyền cùng nhau sống
chết để giải quyết những âu lo, buồn chán đang chất chứa trong lòng…Sau khi bàn
tính phân công nhau, tôi được anh em giao trách nhiệm, ấn định thời gian, xem
và chọn ngày giờ hành động để tiến hành càng sớm càng tốt. Kinh nghiệm nhà tù
cho thấy mỗi khi đã bàn bạc kế hoạch thì không thể chần chờ trì hoãn được, bởi
vì trì hoãn chắc chắn sẽ gặp bất lợi theo kinh nghiệm xưa nay ở trong tù, vì
đây là việc nguy hiểm và hệ trọng liên quan đến từng cá nhân. Anh Nguyễn Văn
Tấn là một chiến sĩ đặc công có nhiều kinh nghiệm trong việc đào tường đào hầm
v.v… Đó là nghiệp vụ chuyên môn, nên anh chịu trách nhiệm đào đất và hướng dẫn
mọi người tập dượt cách thức leo, bò, trườn, nằm, ngồi, chạy. v.v… Phải ngụy
trang ra sao? mặc quần áo màu gì? vào thời gian nào? đêm trăng sáng hay tối
trời ?… bò trên lá cây khô phải làm sao để đừng nghe tiếng kêu sột soạt, bò
trên tôn thiết ( tole) thì cách nào để không bị phát hiện, lội nước như thế nào
hoặc ngoi đầu lên từ dưới nước phải làm sao để không nghe tiếng nước rơi lõm
bõm. Lội xuống bãi sình thì động tác nào để đối phương không phát hiện là dấu
chân của người mà tưởng là dấu chân của trâu, bò v.v…nhằm để đánh lạc hướng hay
phi tang dấu vết. Tôi và các anh em còn lại ôm đất đem lên, tôi vừa lo tiếp tế
lương thực, nước uống.
Khi
công việc tiến hành, anh Tấn là người ra tay đầu tiên và tích cực nhất. Anh đào
bằng một chiếc nắp soong gang loại nhỏ, đường kính khoảng 15cm. Khi vào thực tế
mới phát hiện thêm nhiều trở ngại khó khăn, thật vất vả, mệt nhọc mới cưa đứt
những cây cừ tràm rất to, nằm sâu dưới móng nền đà kiềng, vả lại càng đào xuống
sâu, càng thiếu không khí nên dễ bị ngộp thở, bị ngất, một phần vì đào ban đêm
nên thiếu ánh sáng, đèn cầy hay đèn dầu phọng đốt đem xuống bị tắt ngay, đất
đào đem lên quá nhiều, để ngập cả chỗ nằm, số đất lên đến khoảng vài khối. Để
chui ra được chiếc hầm phải đào chiều dài khoảng 6-7 m trở lên.
Tôi đã dự định ngày giờ hành động và
ấn định thời gian, trời sẽ đổ mưa to vào giờ tý tức từ 11 đến 1 giờ đêm, hoàn
toàn chính xác 100% nhưng tôi không thể lường trước những hoàn cảnh hay trở
ngại khác hoặc khả năng người đào, nên đã đúng giờ lên đường mà việc thực hiện
đào hầm chưa xong. Bởi vì, ở dưới nền đất còn có quá nhiều loại miểng chai, kim
loại và dây chì gai cùng các vật bén nhọn khác rất nguy hiểm cho tay chân người
đào. Mấy lần anh Tấn bị ngạt thở phải kéo lên để hô hấp nhân tạo, anh bị mất
sức quá nhiều vì cật lực trong công việc, giữa lúc ấy bất ngờ tôi lại bị bệnh
kiết nhiệt phải đi tiêu liên tục thật phiền toái vô cùng. Bên cạnh đó em Đỗ
Thành Công có vong linh của người mẹ đã chết từ lâu bỗng nhiên bà ứng nhập vào
xác của Công mách bảo "Nên lấp đất lại đi đừng trốn, nếu trốn sẽ bị tai nạn"
nhưng mọi việc đang dỡ chừng nên chúng tôi đành cố gắng tiếp tục. Bao nhiêu
việc đang dồn dập diễn ra trong mấy ngày qua, ai nấy đều đuối sức. Bất thình
lình trong lúc 5 anh em đang ngồi nghỉ mệt uống nước, đột nhiên anh Trịnh Thanh
Sơn bất thần la hoảng lên " Kìa! Kìa! Nó đến kìa! Ôi ghê quá! Ghê quá!”
Rồi anh té ngất xỉu làm cho tất cả mọi người đều giựt mình. Khi anh Sơn bình
tỉnh trở lại chúng tôi hỏi chuyện gì thế?Anh Sơn đáp: “Tôi thấy có một người
đàn ông, tuổi khoảng 60-70, ở trần truồng ốm lòi xương sườn, hai tay bị còng
bằng dây xích sắt, đầu cổ mình mẩy đầy máu me, tóc bạc trắng xõa dài xuống khỏi
vai, ông ta chấp hai tay van lạy tôi, nhờ tôi cứu ông ta”. Sau khi nghe Sơn
thuật lại, kết hợp với sự kiện mẹ của Công ứng nhập xác về, hai sự việc hình
như là điềm mách bảo trước sự đào tường trốn trại của chúng tôi bất thành.
Nhưng sự việc đã tiến hành, chúng tôi vẫn tiến bước chứ không thể lùi lại được.
Bên ngoài, càng về đêm trời càng mưa "mưa như trút nước”.
Mấy
tên công an tuần tra đi qua đi lại, tiếng đôi giày ống nghe lộp cộp vang lên.
Mưa quá to nước chảy mạnh, làm mềm đất chiếc hầm đang đào bị sụp xuống, đất lấp
cả người anh Tấn, một lần nữa tôi phải lẹ làng chui xuống hầm kéo mạnh anh lên
để sơ cứu. Một hồi lâu anh mới tỉnh lại, khi tỉnh dậy anh cho biết trong người
mệt lã không còn sức lực để tiếp tục đào được nữa bốn người chúng tôi còn lại
cũng không thể mang lên cả khối đất khổng lồ vừa sụp lở đầy hầm như thể chưa
đào lúc ban đầu.Lúc này thật là"Tấn thối lưỡng nan", kế tiếp buổi sáng
đến, chúng tôi phải vào nhà vệ sinh rửa ráy tay chân. Thật oái oăm là bùn đất
bên phòng chúng tôi đã làm nghẹt nhà cầu vệ sinh của các phòng ở phía sau giam
các anh em của lực lượng quân sự trong tổ chức Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Các
anh em phía sau thông báo cho cán bộ an ninh phiên trực ban ngày. Nên công an
bắt đầu mở khóa tất cả 2 dãy phòng trước và sau để kiểm tra.
Khi
mở cửa đến phòng chúng tôi, trông thấy mấy khối đất khổng lồ. Họ liền chạy ra
và lên chòi canh bắn súng chỉ thiên báo động. Thế là 5 người chúng tôi bị thua
rồi! Viện kiểm sát đến chụp ảnh, quay phim hiện trường, cách ly mỗi người, mỗi
phòng khác nhau, chấp pháp điều tra, lập biên bản và Ban giám thị trại đề nghị
viện kiểm sát khởi tố… chúng tôi bị cấm thăm nuôi, không được nhận quà gia đình,
hai chân tôi bị còng quyện suốt ngày đêm hơn 1 năm … cho đến ngày thuyên chuyển
đi miền Trung trại Xuân Phước tỉnh Phú Khánh. Anh Tấn thì bị ra tòa họ khép anh
“Tội phản bội Đảng, tiếp tay cho bọn phản
động có mưu đồ đánh phá trại giam trốn trại để cộng tác với các đối tượng thù
địch, nhằm lật đổ chính quyền mà họ gọi là cách mạng của nhà nước CHXHCNVN”.
Anh bị tăng án "tử hình” và đã bị đem đi hành quyết. Mặc dầu không thành
công và anh Tấn đã qua đời cũng là điều đáng tiếc nhưng mấy lời này tôi muốn nói
lên để khắc ghi tinh thần nhiệt tình mà anh Tấn đã đóng góp tích cực trong một
chuyến đào tường vượt ngục bất thành. Xin cầu nguyện hương hồn anh một người
đồng tù tại tỉnh Bạc Liêu được sớm tiêu diêu nơi miền lạc cảnh.
No comments:
Post a Comment