Saturday, September 5, 2015

ĐOẠN TRƯỜNG BẤT KHUẤT CỦA PHẠM TRẦN ANH

Written By Kelvin Tran on Sunday, February 8, 2015 | 7:39 PM







ĐOẠN TRƯỜNG BẤT KHUẤT


TẢN MẠN TÂM TÌNH …
CỦA MỘT TÙ NHÂN KHỔ SAI CHUNG THÂN
VIẾT TỪ ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
  

KÍNH DÂNG QUỐC TỔ
HỒN THIÊNG SÔNG NÚI
DÒNG GIỐNG RỒNG TIÊN.
Anh linh Tiền nhân dựng nước.
Anh thư Hào kiệt đời đời giữ nước …
Các chiến sĩ đã hi sinh vì lý tưởng Tự do Dân chủ 

  

Sông núi trời Nam của nước 

NamSách trời định rõ tự muôn ngàn

Cuồng ngông giặc dữ vào xâm lấn

Chuốc lấy bại vong lũ bạo tàn … 

PHẠM TRẦN ANHcẩn dịch


 




LỜI GIỚI THIỆU


     Ông Phạm Trần Anh là một người anh em kết nghĩa của tôi, tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh và đã dấn thân tranh đấu cho dân chủ ngay thời còn sinh viên. Anh có một tấm lòng rộng rãi tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Anh có trình độ nhận thức cao, có đầy đủ chí khí và tinh thần nhiệt huyết, phong cách bình dị, sống gần gũi với anh em, rất thông cảm với anh em bạn tù đặc biệt là những người nghèo khổ bệnh hoạn và anh em đồng bào thiểu số. Anh thường lui tới an ủi tâm sự với những anh em có trình độ thấp hoặc khốn khó, bơ vơ trong tù. Anh đã từng leo rào vào ăn uống với anh em bị bệnh lao trong trại tù Xuân Lộc mà không sợ bị lây nhiễm hoặc bị cùm còng kỷ luật của công an CS…

    Tháng 5 năm 1996, anh Phạm Trần Anh và tôi đã cùng Thượng Tọa Thích Trí Siêu, Thầy Nguyễn Viết Huân dòng Đồng Công, giáo sư nguyễn Mạnh Bảo Cao Đài, cụ Nguyễn văn Đấu Phật Giáo Hòa Hảo đã đấu tranh chống lao động và học tập chính trị. Chúng tôi đã biến lớp học chính trị của Cộng Sản trong tù thành diễn đàn đấu tranh công khai đòi dân chủ tự do, đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp của cái gọi là nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đòi quyền sống tối thiểu của con người …

     Nhân danh hội Bảo vệ Tù nhân Chính trị bao gồm các thành viên đủ màu sắc tôn giáo đứng lên đấu tranh và cùng ký tên gửi kháng thư tới Liên Hiệp quốc. Bản Kháng thư đã được Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền và Uỷ ban Bảo vệ quyền làm người Việt Nam đưa ra trước Phân ban Nhân quyền Liên Hiệp quốc như sau: “Ngày 27 tháng 5 năm 1996, tập thể tù nhân chính trị tại trại Z30A K1 đã biểu tình đưa kiến nghị đòi cải thiện chế độ lao tù theo đúng như những qui định trong điều 36 về những qui định tối thiểu về việc đối xử tù nhân của Liên Hiệp quốc. Tất cả tù nhân chính trị đã ký tên gồm Đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất: TT Thích Thiện Minh, Đại diện Thiên Chúa giáo: Thầy Nguyễn Viết Huân Dòng Đồng Công, đại diện Cao Đài: GS Nguyễn văn Bảo, đại diện Phật Giáo Hòa Hảo cụ Nguyễn văn Đấu và Hội Bảo vệ Tù nhân Chính trị Việt Nam: Huỳnh Hưng Quốc tức Phạm Trần Anh …”.  Cũng thời gian này, anh em tù nhân chính trị tại trại tù Xuân Phước cũng đứng lên đấu tranh đòi dân chủ nhân quyền cùng viết lên thiên sử ca hoành tráng ngay trong các trại tù khổ sai của chế độ Cộng sản. Trải qua nhiều năm dài chung sống trong tù, anh luôn luôn giữ trọn khí tiết và tình nghĩa, tôi vô cùng trân trọng mặc dù trong thời gian tù tội anh cũng gặp những nghịch cảnh thương đau như bao nhiêu người tù khác khi người vợ thân yêu của mình vì thời gian xa cách và hoàn cảnh cuộc sống đã quyết định chia tay…

     Anh không nói gì, không có vẻ buồn phiền gì nhưng thỉnh thoảng tôi bắt gặp anh ngồi trầm ngâm với điếu thuốc trên tay, đôi mắt đăm chiêu nhìn về phương trời xa vắng. Tôi hiểu và thương anh nhiều hơn. Tuy là người tu hành nhưng nhưng tôi cũng hiểu rằng, người chiến sĩ cách mạng cũng là một con người bình thường, ngoài lý tưởng cao đẹp còn mang tâm hồn của một người nghệ sĩ lãng mạn  và còn là một người chồng người cha. Nếu không yêu nước thương dân, không có một chút lãng mạn bất cần đời, bất cần thân thể thì làm sao dám đánh đổi cuộc đời mình với những rủi ro bất trắc kể cả với cái chết. Tôi chưa kịp hỏi và an ủi anh thì như hiểu được ý tôi nên anh nói ngay: “Thầy Ba đừng bận tâm nhiều. Đây là chuyện đời thường, chuyện nhỏ mà …”. Tôi nói ngay “Bộ ông không buồn à?”. Anh chậm rãi trả lời: “Buồn thì có buồn chứ, mình là con người mà chứ có phải cỏ cây gỗ đá gì đâu nhưng cũng may, nói theo thi sĩ Tản Đà thì mình đã có một mối tình lớn, mối tình với đất nước dân tộc thì sá gì một mối tình con! Phải thế không thầy Ba?”. Tuy anh nói vậy nhưng trong thâm tâm tôi vẫn hiểu và thương anh nhiều. Mai kia, nếu còn sống sót trở về sau một thời gian tù ngục bằng nửa đời người, anh sẽ sống trong cô đơn với những nỗi ưu phiền chồng chất. Chắc chắn là anh phải đương đầu hoặc tìm cách ẩn nhẫn với một kẻ thù nguy hiểm luôn rình rập mưu hại người yêu nước. Tôi luôn luôn tin tưởng một người có nghị lực và ý chí cao như anh sẽ vượt qua tất cả những khúc khuỷu gập ghềnh, cam go nguy hiểm chờ đợi từng ngày từng giờ để vươn lên, vượt qua tất cả…". 

Suốt chín năm sống ngoài xã hội nhưng thực sự là một nhà tù vĩ đại anh đã phải đương đầu với biết bao khó khăn cản trở nhưng anh vẫn nhẫn nại, âm thầm tiếp xúc với quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo và các chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ trong nước để vận động thành lập Hội Ái hữu Tù nhân chính trị và Tôn giáo Việt Nam trước khi lên đường sang Hoa Kỳ đoàn tụ với gia đình, đồng thời dành hết tâm sức để hoàn thành một công trình lớn tìm về “Cội nguồn Dân tộc”, một đóng góp to lớn cho dân tộc Việt. Công trình nghiên cứu vô giá của anh rất đáng khâm phục, thật xứng đáng là con dân nước Việt, con cháu của dòng giống Rồng Tiên. Tôi nghĩ tới câu nói của người xưa thật là đúng với con người nặng lòng với đất nước này: “Đi một mình không thẹn với bóng, ngủ một mình không thẹn với chăn vì đã giữ vẹn một tinh thần cao đẹp tinh khiết!”.

     Mãi đến tháng 9 năm 2006, sau nhiều lần tìm cách ngăn cản nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải để anh xuất ngoại đoàn tụ với gia đình sau hơn 29 năm xa cách. Anh được Hội Đồng Cố Vấn và Giám Sát Hội Ái hữu Tù nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam trao phó nhiệm vụ Phó Hội trưởng Đặc trách ngoại vụ kiêm Chủ tịch Hội đồng Điều hành Hải ngoại của Hội. Hội đang sưu tầm danh sách hàng trăm tù nhân chính trị bị nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam xử tử hình và xuất bản tập Thơ Tù “Bất khuất” để giới thiệu với đồng bào trong và ngoài nước những đóng góp hi sinh của tù nhân chính trị và tôn giáo Việt Nam. Trong ý hướng đó, chúng tôi xin mời quý đồng bào đọc những vần thơ của anh em tù nhân chính trị viết từ tận đáy địa ngục trần gian tuy lắm đoạn trường nhưng vẫn thể hiện tinh thần bất khuất vô song của những người Việt Nam yêu nước đấu tranh cho quyền sống làm người: quyền dân chủ, tự do thực sự, để nhân dân Việt Nam được ấm no hạnh phúc thực sự.

THÍCH THIỆN MINH

Hội Trưởng Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN.


   TẢN MẠN TÂM TÌNH


     Nhân buổi lễ Tưởng niệm “Ba mươi hai năm ngày Quốc Hận”, tôi nói chuyện tại Tượng đài Chiến sĩ nên không kịp đến tham dự “Bữa cơm Cay đắng” do Tổng hội Cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh và thân hữu tổ chức. Bữa cơm cay đắng để nhớ lại những  đắng cay của một thời mất mát thương đau, nhắc nhở chúng ta “vui xuân đừng quên nhiệm vụ” đấu tranh cho dân chủ tự do mang lại ấm no hạnh phúc cho hơn 84 triệu đồng bào Việt Nam chúng ta. Tôi viết lại những tản mạn “Đoạn Trường” này để tâm tình chia xẻ những thương đau mất mát của tất cả chúng ta như một lời tạ lỗi với anh em Quốc Gia Hành Chánh và thân hữu.

     Thưa quý vị, chúng ta vừa khánh thành tượng đài nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản để bia đá ngàn thu sẽ khắc ghi tội ác của chủ nghĩa Cộng Sản đối với nhân loại trong đó dân tộc Việt Nam chúng ta. Dân tộc chúng ta đã phải chịu hậu quả nặng nề nhất với 2 cuộc di cư vĩ đại của mấy triệu người, một cuộc bỏ phiếu bằng chân có một không hai trong lịch sử nhân loại. Hàng triệu gia đình Việt Nam ly tán, hàng triệu người Việt Nam vô tội ở cả hai miền Nam Bắc đã hi sinh vì sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản nhuộm đỏ đất nuớc Việt Nam. Sau ngày mất nước, cả triệu quân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa bị trả thù giam cầm đày ải trong các trại tù. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu ngoại quốc thì hơn 65 ngàn người đã bị xử bắn và chết trong các trại tù dã man khắc nghiệt núp dưới một cái tên hoa mỹ nhưng hết sức thâm độc là “Tập Trung Cải Tạo”. Đặc biệt hơn nữa, sau ngày quốc hận quân dân miền Nam đã đứng lên chống lại sự thống trị độc tài của bạo quyền phi nhân Cộng Sản. Hàng trăm chiến sĩ tự do đứng đầu các tổ chức, liên minh, mặt trận người Việt tự do bị chế độ Cộng Sản bắt xử tử hình và hơn 300 tù nhân chính trị và tôn giáo Việt Nam, những anh hùng dân tộc trong đó có 2 vị linh mục và 2 phụ nữ, đặc biệt chị Trần Thị Lan có thai 8 tháng đã phải ra pháp trường lãnh nhận bản án tử hình.

    Cho đến bây giờ sau mấy chục năm, thế giới và ngay cả chúng ta cũng không hề biết tới sự hy sinh cao đẹp của họ, không hề quan tâm tới số phận của gia đình con cái họ. Chúng ta không hề quan tâm tới cuộc sống thê thảm của cả ngàn anh em tù chính trị trong lao tù Cộng Sản và hoàn cảnh khó khăn bức bách khi trở về bị theo dõi, phân biệt đối xử, bị cô lập khống chế kinh tế dưới chế độ toàn trị của Cộng Sản. Những người có lương tri cũng không bao giờ tin được chế độ Cộng Sản Việt Nam giam giữ những người tù chính trị trên 30 năm, quá nửa cuộc đời. Bằng chứng cụ thể là mới đây Cộng Sản Việt Nam vừa phải trả tự do cho anh Phan văn Bàn, một người bạn tù của tôi sau 30 năm tù và anh Nguyễn Hữu Cầu, một Đại Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới được trả tự do sau khi Hoa Kỳ can thiệp sau hơn 37 năm trời lây lất sống chờ chết ở trong tù.

     Nếu không có sự lên tiếng của chúng ta và không có sự can thiệp của công luận và chính giới quốc tế thì đến bao giờ những người đấu tranh cho dân chủ mới được tự do? Chỉ có chế độ Cộng Sản bất nhân tàn bạo mới giam giữ những tù nhân chính trị gần cả cuộc đời như một Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Thượng Toạ Thích Thiện Minh, ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện, Biệt kích Hoàng Đình Mỹ 32 năm tù, gs Nguyễn Đình Huy, một Phan văn Bàn, một Vũ Đình Thuỵ người bạn chiến đấu, người em kết nghĩa trong tù mới được thả sau 31 năm 10 tháng 11 ngày tù. Tôi muốn nói tới Hướng Dương Vũ Đình Thụy, một người trẻ yêu nước nhiệt tình đã từng sống chết nơi “Thung lũng của Tử thần”, một người mà những vần thơ bất khuất trong tù đã làm rung cảm giới văn học quốc tế với giải thưởng “Quyền tự do viết văn 2007” của “VASSYL STUS FREEDOM TO WRITE” Award và được mời là hội viên danh dự của Trung tâm văn bút Hoa Kỳ/ PEN New England. Ngày 19 tháng 4 năm 2007 vừa qua, tân khôi nguyên giải thưởng Vasyl Stus Quyền tự do viết văn 2007 và tân hội viên danh dự Trung tâm Văn bút Hoa Kỳ/PEN New England. Vũ Đình Thuỵ đang bị chế độ Cộng sản quản chế ở Việt Nam nhưng đã được giới thiệu với báo chí tại nhà thờ First Parish Unitarian Universalist Church, thành phố Cambridge, tiểu bang Massachusetts Hoa Kỳ. Thế mà giới văn học hải ngoại ít ai biết tới sự kiện văn học của thế giới này để chúng ta có quyền tự hào hãnh diện về nền văn học Việt Nam hôm nay và mai sau.

    Ngoài ra cũng phải nhắc đến hai nhà thơ nổi tiếng văn hay chữ tốt, đó là một Trần Thúc Vũ với những lời thơ “Lửa thép” kiêu hùng: “Lá Tự Do nuôi một trời hy vọng, Cây Tự Do nuôi Dân tộc Hưng tồn. Người Việt Tự Do muôn thuở Thơm danh, Danh thơm ấy bởi bao nguồn máu đổ. Máu đã đổ trên khắp miền đất nước. Triệu bàn tay chung dựng mặt trời lên, triệu hờn căm gom lại một căm hờn. Xô lệch núi xoay nghiêng trời đất lại ..!”. Ngang tàng ngạo nghễ đến độ thách thức cả anh bạn tử thần thì trên đời này quả là có một không hai: “Này tử thần, Ta dũng sĩ ôm mối hờn quốc nhục, Lòng căm căm lửa bốc những canh khuya. Thân còn nợ núi sông chưa báo đáp, Mới đành cam lưu luyến buổi phân lìa!” và nhà thơ “Chí khí hùng anh, một đời ngang dọc” cũng đã bỏ chúng ta sang một cõi khác để lại cho chúng ta một trọng trách phải hoàn thành để xứng đáng với những lời uỷ thác của bạn bè, xứng đáng là một con dân đất Việt.

     Ngoài Trần Thúc Vũ còn có một nhà thơ “Chua” chửi đời nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ miền Nam, người đã xem cuộc đời chẳng nghĩa lý gì, chẳng có một kí lô gam nào. Một người bạn cùng chung lý tưởng, một chiến sĩ hữu thệ cùng có lời thề sông núi chống bạo quyền mang lại độc lập tự do, dân chủ, hạnh phúc thực sự cho toàn dân. Xin thưa đó là Thi sĩ Tú Kếu năm nào, người đã từng xem “Sự đời như cái lá đa, đen như mõm chó chém cha sự đời ..!”. Cả hai người bạn thân thiết của tôi, cả hai chiến hữu ruột thịt của tôi cũng đã chết do hậu quả của thời gian dài trong lao lý đày đoạ, khổ ải, trầm luân!

     Thế nhưng trong tận cùng địa ngục với những gông cùm xiềng xích, những đoạ đày khổ ải, thương đau mất mát đoạn trường đó vẫn vang lên những vần thơ bất khuất kiêu hùng của những anh em tù nhân chính trị, những người con yêu của Tổ quốc Việt Nam. Những vần thơ kiêu hùng bất khuất đó đã được cả nhân loại trân trọng và sẽ vang vọng mãi tới muôn đời.

     Trong tận cùng của cõi sống nơi địa ngục trần gian, tôi mới thực sự chứng nghiệm được ý nghĩa và giá trị của tự do và cũng trong tận cùng của đói no, chết chóc-người ta mới thấy được chân giá trị của cuộc đời, nhân cách của một con người. Tôi phải nói tận đáy lòng mình rằng tôi may mắn được sống trong khoảnh khắc mong manh của giữa sự sống và cái chết. Tôi đã gặp được những chiến sĩ kiên cường bất khuất, những anh hùng thực sự như một Linh mục Nguyễn Luân, một nhân sĩ Cao Đài Phan Đức Trọng, một Thượng Toạ Thích Thiện Minh và sau này Linh mục Nguyễn văn Lý, một anh thư Lê thị Công Nhân … và nhiều nhiều nữa những anh hùng đã và đang mở ra một trang sử mới cho dân tộc.

     Trong những ngày tháng lao tù đó, tôi suy nghĩ nhiều về những lơ là thiếu sót của mình, những yếu tố nào đã dẫn đến thảm kịch 30-4-1975, những bài học đắng cay đầy máu và nước mắt. Ba mươi hai năm nhìn lại, so với chế độ cộng sản là một địa ngục trần gian có thật thì Việt Nam Cộng hoà là một thiên đường nhưng thiên đường đó cũng còn những điều phải chấn chỉnh phải hoàn thiện. Đành rằng sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Sự tranh giành quyền lực của lưỡng đảng trong sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ và quyền lợi dân tộc của người bạn “Đồng minh”, sự bất tài vô tướng của thiểu số lãnh đạo bất xứng đã không biết vận dụng sức mạnh của toàn dân để diệt cộng cứu quốc lại gây ra tệ trạng tham nhũng khiến nhiều chiến sĩ quốc gia chân chính bất mãn. Thế nhưng bản thân tôi vẫn cảm thấy có một phần trách nhiệm vì đã lơ là, không làm hết trách nhiệm của một cán bộ công chức trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa để chúng ta mất nước vào tay cộng sản.

     Tôi xin cúi đầu trước những anh linh của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vị quốc vong thân, những hương hồn của hàng triệu đồng bào đã hi sinh trong cuộc chiến, của những đồng bào thiếu may mắn đã tử nạn trên biển cả trên đường tìm tự do!

     Đoạn trường bất khuất không phải là hồi ký mà chỉ là tản mạn tâm tình về những cảnh đứt ruột trong tận cùng địa ngục trần gian nhưng cũng ngất trời khí thế bất khuất của những anh em tù nhân chính trị và tôn giáo. Ngoài những vần thơ tù Bất khuất của những anh em tù nhân chính trị, tôi cũng xin gửi tới quí vị những tản mạn đoạn trường trong thời gian tù, những bài thơ của thân hữu anh em văn nghệ sĩ còn ở Việt Nam và những vần thơ tưởng nhớ mẹ hiền. Cuối cùng là mấy bài thơ lãng đãng của kẻ hèn này, một con người cũng biết yêu thương buồn vui nhưng trót cưu mang một “Mối tình lớn” nên đã phải đi tu … vâng tu huyền tù vì “chữ tù cùng với chữ tu một vần” như Thượng Toạ Thích Thiện Minh đã viết:

 “Những người yêu nước sa cơ

Nỗi lòng cảm xúc làm thơ trong tù

Đi tù cũng giống đi tu

Bền tâm vững chí công phu vô vàn

Vườn Hồng, Cúc, Huệ, Đào, Lan

Thiên niên, Vạn thọ, Mai vàng, Lựu, Lê

Thơ tù đậm nét tình quê

Thắm tình dân tộc lời thề nước non

Hiến dâng Tổ quốc lòng son

Ngàn năm rạng rỡ cháu con Lạc Hồng ..!  


 
VIỆT NAM MUÔN NĂM 

Thơ: Phạm Trần Anh Nhạc: Lê Quốc Tấn


Hợp Ca: Ban CVA & TV Bắc California -USA 

https://www.youtube.com/watch?v=7UbofVxThXU  

Việt Nam muôn năm, người người nằm xuống

Việt Nam muôn năm, anh dũng đứng lên …

Việt Nam muôn năm, Anh hùng Cứu quốc

Việt Nam muôn năm, sống mãi muôn đời! 

Việt Nam muôn năm, người người tiếp nối

Việt Nam muôn năm, anh dũng đứng lên …

Việt Nam muôn năm, Anh hùng Cứu quốc

Việt Nam Muôn năm, sống mãi muôn đời! 

Ta không quên những anh hùng dân tộc

Vì nhân dân nguyện dâng hiến thân mình

Vì tương lai ngại gì khi quốc biến

Dẫu tan thây nhưng sống mãi muôn đời! 

Sống mãi muôn đời …

Sống mãi muôn đời …    

     


 NGƯỜI NUÔI LÝ TƯỞNG NHÂN SINHTHI SĨ ĐAM MÊ VĂN NGHỆ 


. Phạm Trần Anh bút hiệu Phạm Trần Quốc Việt sinh năm 1945 tại làng Cát Hạ, huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định. Sau hiệp định Genève anh di cư vào Nam năm 1954 và trưởng thành ở Sài Gòn.

. Cựu Học sinh Trường Trung học Nguyễn Trãi và Chu văn An từ 1956-1963.

. Thời sinh viên từng hoạt động trong Ban Đại diện Sinh viên Y Khoa Huế, chủ bút Giai phẩm Xuân Tình Thương của Đại học Y Khoa Huế 1964.

. Trưởng ban Tổ chức Tổng hội sinh viên Huế chống Hiến chương Vũng Tàu 1964 của chính phủ quân phiệt Nguyễn Khánh. Tranh đấu đòi phục hồi quyền Dân chủ bầu Quốc hội Lập hiến.

.  Giáo sư dạy giờ trường Trung học Saint Thomas Sài Gòn.

. Uỷ viên Báo chí Ban Đại diện Sinh viên Quốc Gia Hành Chánh.

. Đoàn trưởng Đoàn sinh viên Phật tử Xã hội 1968.

.Trung tâm trưởng Trung tâm Phan Sào Nam cứu trợ đồng bào nạn nhân Cộng Sản tết Mậu Thân 1968.

. Chủ trương các tờ báo sinh viên Đất Đứng, Ý Thức, Cấp Tiến và Bừng Sáng thập niên 1960.

. Ủy viên Thường vụ Tổng đoàn Thanh niên Võ đạo Việt Nam (Vovinam).

. Tốt nghiệp Học viện Quốc Gia Hành Chánh Khóa XIV.

. Cựu sinh viên Cao học chính trị xã hội viện Đại học Đà Lạt.

. Ủy viên Kế hoạch Hội Cựu sinh viên QGHC 1969-1971.

. Quản đốc Trung tâm Huấn luyện và Tu nghiệp công chức tỉnh Quảng Nam 1969.

. Tốt nghiệp khoá 4/70 Sĩ qua Trừ bị Thủ Đức. Trưởng ban Biên tập Nguyệt san Bộ Binh và kỷ yếu khoá 4/70.

. Phó Quận trưởng Hành chánh quận Tam Bình Minh Đức, Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long (1970-1973).

. Trưởng ty Hành Chánh kiêm Quản đốc Trung tâm Huấn luyện và Tu nghiệp công chức tỉnh Lâm Đồng.

. Sau ngày mất nước, ở lại Việt Nam thành lập Mặt trận Người Việt Tự do cùng với Thi sĩ Tú Kếu Trần Đức Uyển, nhà văn Trọng Tú.

. Bị chế độ CSVN bắt ngày 3 tháng 7 năm 1977, toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng buộc tội: “Tên Phạm Trần Anh là tên phản động ngoan cố cực kỳ nguy hiểm, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có kinh nghiệm chống phá cách mạng, câu kết với các tổ chức phản động trong nước và các thế lực phản động quốc tế nhằm lật đổ chế độ … Tòa kết án Chung thân, cách ly khỏi xã hội”.

. Sau hai mươi năm 1 tháng tù đày, do sự can thiệp của Tổ chức Ân Xá Quốc tế Amnesty và của Thủ Tướng Thụy Điển, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phải trả tự do ngày 3 tháng 8 năm 1997 sau hơn 20 năm tù đầy trong đó bị cùm chân tay gần chín năm trong xà lim.

      Sau hơn 9 năm cầm giữ trong nước không cho xuất ngoại vì “Nguy hiểm đến an ninh quốc gia”. Do sự can thiệp, ngày 2 tháng 9 năm 2006 mới sang đoàn tụ với gia đình tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, Phạm Trần Anh đã tìm tòi nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Việt. Đồng thời anh cũng âm thầm cùng với Thượng Tọa Thích Thiện Minh, TT Thích Không Tánh, cư sĩ Trần Hữu Duyên chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Phật Giáo Hòa Hảo … tổ chức Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam do Thượng Tọa Thích Thiện Minh làm Hội Trưởng. Sau khi mời các Linh mục Nguyễn văn Lý, Phan văn Lợi, Mục sư Trần Mai, Nguyễn Hồng Quang, Cư sĩ Lê Quang Liêm, Cư sĩ Trần Hữu Duyên CT Ủy Ban Bảo vệ Phật giáo Hòa Hảo, GS Nguyễn Mạnh Bảo Cao Đài làm cố vấn cho Hội, Phạm Trần Anh mới lên đường xuất ngoại sang định cư tại Hoa Kỳ.

     Trong cương vị Phó Hội Trưởng đặc trách ngoại vụ, Phạm Trần Anh tích cực vận động công luận quốc tế và đồng bào Hải ngoại ủng hộ các chiến sĩ Dân chủ đấu tranh cho tiến trình Dân chủ hóa Việt Nam.

     Sau ngày cộng sản Việt Nam xâm chiếm miền Nam Việt Nam, anh làm giả lý lịch gia đình “cách mạng” để cùng với thi sĩ Tú Kếu (Trần Đức Uyển) thành lập Mặt trận Người Việt Tự do Diệt cộng Phục quốc, tiếp tục đấu tranh cho Tự do Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam. Tháng 7 năm 1977 anh bị bắt và đưa ra cái gọi là toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử với tội danh: Âm mưu Lật đổ chính quyền Cách mạng! Toà án CS đã kết án Chung thân với tội danh: “Phạm Trần Anh là một tên phản động cực kỳ ngoan cố, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có kinh nghiệm chống phá cách mạng, cấu kết với các thế lực phản động trong và ngoài nước để lật đổ chính quyền cách mạng ...”.

      Sau gần chín năm cùm chân trong xà lim và hơn 11 năm lao động khổ sai trong các trại tù khắc nghiệt nhất của chế độ Cộng sản, anh được sự can thiệp của Thủ tướng Thụy Điển cũng như các Hội đoàn tranh đấu cho nhân quyền, Hội Ân xá Quốc tế International Amnesty nên chính quyền Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải trả tự do cho anh ngày 3 tháng 8 năm 1997 sau hơn 20 năm tù ngục.

     Trong thời gian tù đầy, anh vẫn kiên cường bất khuất kiên định lập trường quốc gia dân tộc nên đã bị Cộng Sản tra tấn đánh gãy hai hàm răng, mắt bị mờ hậu quả của gần 9 năm cùm chân còng tay trong phòng tối nên phải thay cả hai thủy tinh thể nhân tạo hiện anh đang điều trị bệnh tật hậu quả của thời gian lao lý gần nửa đời người của anh.

      TRƯỚC NGÀY MẤT NƯỚC 30 tháng tư năm 1975, tôi có duyên gặp và quen anh ở Câu Lạc bộ Phấn Thông Vàng ở đường Nguyễn Thông do anh Nguyễn Thùy là chủ nhiệm. Buổi tối hôm đó, trong sinh hoạt hàng tuần vào tối thứ bảy, nhà thơ Phan Lạc Giang Đông giới thiệu tôi trình bày đề tài: “Thi sĩ và cuộc đời”. Tôi còn nhớ như in buổi tối hôm đó có cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nhà văn Hoàng Xuân Việt, nhà văn Bùi Nhật Tiến, Hồ Trường An, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, Phương Đài, Hoàng Trúc Ly, Diễm Phúc, Kiêm Thêm, Huy Bằng, Ngọc Tự, Hà Thuỷ, Lê Trường Đại, Tô Duy Khiêm, Tô Nguyệt Điền, Dương Khanh, Định thị Thuỵ Yên, Anh Hải và Phạm Trần Anh cùng các anh chị em sinh viên, các em học sinh các trường Bồ Đề, Nguyễn Trường Tộ, nguyễn Công Trứ đến tham dự đông đủ …

       Lúc đó tôi biết Phạm Trần Anh qua sự giới thiệu của Trần Ngọc Tự và Phan Lạc Giang Đông nhưng chưa lấy gì làm thân lắm vì anh cũng như các anh Hoàng Tổng, Huy Lực và Nguyễn Trọng Nho tốt nghiệp kỹ sư sau làm dân biểu Hạ viện còn tôi là con người của văn nghệ, diễn ngâm trong chương trình Thi văn Tao Đàn, chủ trương cơ sở xuất bản Nhân Chứng rồi làm Trưởng ban Văn học nghệ thuật Đài Truyền hình Sài Gòn từ 1970-1975. Thế nhưng, tôi mến mộ Phạm Trần Anh vì anh là người đam mê sôi nổi, cởi mở và thẳng thắn rất dễ thân quen nên phải nói rằng Phạm Trần Anh là con người của đám đông của quần chúng.  Phạm Trần Anh là người có tâm hồn văn nghệ, đặc biệt trong anh còn ấp ủ một lý tưởng dân tộc, phục vụ nhân sinh: đấu tranh cho dân chủ tự do, một xã hội công bằng nhân ái.

     Sau hơn hai mươi năm lao lý trở về, nụ cười vẫn nở trên môi con người lúc nào cũng lạc quan yêu đời, Phạm Trần Anh đã lặn lội đi tìm lại những bạn bè thân quen xưa cũ để hàn huyên tâm sự như không có gì xảy ra trong cuộc đời của một con người trải qua hai mươi năm tù. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh không nhắc gì về một nửa đời tù của anh. Tôi hỏi, anh cười vui rồi nói: “Chuyện nhỏ mà, mình xem nó như là một giấc ngủ trưa!”.  Anh say sưa kể lại những đoạn đường chiến binh của một chiến sĩ lao tù mà khi nghe xong thì những quần đảo ngục tù ngày xưa tôi đọc với sự sự cảm phục ghê gớm thì bây giờ chẳng nghĩa lý gì với nơi địa ngục trần gian mà bạn tôi và biết bao người yêu nước đã đi qua…

     Nhắc lại chuyện hôm ra tòa, Anh kể trước khi tuyên án tên chánh án hỏi tôi: Anh có nhận tội không? Phạm Trần Anh đã hiên ngang nói trước tòa án Cộng Sản: “Tôi là người Việt Nam yêu nước chống Cộng sản, tôi không có tội gì cả. Đối với xã hội chủ nghĩa của các anh thì tôi có tội, các anh muốn xử gì thì xử nhưng với đồng bào Việt Nam của tôi, tôi chỉ có tội vì chưa làm được những gì mà đồng bào tôi mong muốn. Đời tôi để lịch sử xử, Xin đồng bào tha lỗi cho tôi ..!”.

     Nói xong anh chào tay đồng bào đang ngồi dưới hội trường Trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Cả hội trường vỗ tay quên cả sợ sệt, mấy bà mẹ Việt Nam khóc thút thít rồi cúi mặt lau nước mắt, một số người cầm lòng không được đứng dậy bước ra không khí xôn xao hẳn lên ngoài tiên liệu của cộng sản khiến tên chánh án đập bàn liên hồi. Mấy tên công an đứng cạnh anh hốt hoảng kéo xuống rồi đè ra còng tay lại. Chúng tức giận xiết còng tay khiến tay anh sưng vù, máu bầm lại …

      Trên đường giải giao về trung tâm Thẩm vấn Đà Lạt, Tú Kếu nhìn anh có vẻ thương hại nói: Bác có chống án không? Anh trả lời: “Không, dứt khoát là không vì mình có công nhận toà án cũng như chế độ nó đâu mà chống với không chống án ...”. Tú Kếu nhe răng ra cười:  “Bác nói phải, chí phải. Tôi tưởng bác bị tử hình thì bác không chống tôi cũng chống để kéo dài thời gian ra may cứu được bác. Còn bây giờ thì không dứt khoát là không”. Anh xúc động vì bạn mình hiểu và thương mình, anh cười nói với anh em: “Chuyện nhỏ mà các bạn, Mình còn là còn tất cả, cứ xem như một giấc ngủ trưa phải không các bạn ?”. Anh em cười vui vẻ và không một ai chống án cả. Lúc công an giải ra xe, Bà con cô bác chạy theo người nắm tay, kẻ ném quà bánh thuốc hút đầy cả xe. Bọn công an xô đuổi cũng không được đành đứng nhìn một cách bất lực. Tên trưởng đoàn bèn vội ra lệnh cho xe chạy, bà con vẫn chạy theo, kẻ chửi người la í ới … Ôi, những hình ảnh thân thương đó làm sao mà mình có thể quên được...”.

     Viết về Phạm Trần Anh trong các trại tù cộng sản hơn 20 năm “Người tù lương tâm của Việt Nam”, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã kể lại trong Hồi ký “Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày” như sau: “Ông Phạm Trần Anh, một người anh em kết nghĩa hoặc gọi là kết bạn vong niên. Anh tốt nghiệp Ban Đốc sự Học viện Quốc Gia Hành Chánh và Cao học Chính trị xã hội đã từng giữ chức vụ Phó Quận Trưởng, Quản Đốc, Trưởng Ty Hành Chánh tỉnh Lâm Đồng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Anh có tấm lòng rộng rãi tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Anh có trình độ nhận thức cao, có đầy đủ chí khí và tinh thần nhiệt huyết, phong cách bình dị, sống gần gũi anh em, rất thông cảm với anh em đồng tù, đặc biệt là đồng bào thiểu số và những người nghèo khổ bệnh tật. Anh thường tới lui an ủi tâm sự với những người có trình độ thấp hoặc khốn khó bơ vơ trong tù. Anh đã từng leo rào vào thăm hỏi, ăn uống với anh em bị bệnh lao ở trại tù Xuân Lộc mà không sợ bị kỷ luật, lây nhiễm gì cả.

     Dù biết rằng trong cuộc đời là ”Nhân vô thập toàn” ắt hẳn không ai hoàn hảo cả, bản thân tôi và anh cũng thế. Tôi luôn luôn nghĩ rằng “Nhân tận kỳ tài”, mỗi người sinh ra trên đời đều có một tài năng riêng nhưng chưa biết đúng chỗ phát huy. Tôi hy vọng mọi việc hanh thông sẽ dành phần cho người tốt như anh. Anh Phạm Trần Anh đối với tôi có 4 điểm, anh vừa là người anh kết nghĩa, vừa là người bạn đồng tù cùng chí hướng, vừa là một Phật tử rất kính trọng thầy tu, lại vừa là mạnh thường quân giúp đỡ tôi rất nhiều trong những tháng năm tù đày nghiệt ngã.

     Trải qua nhiều năm dài, anh luôn luôn giữ trọn tình trọn nghĩa, tôi vô cùng trân trọng. Mặc dầu, ngày được trả tự do anh gặp nhiều nghịch cảnh éo le.  Thời gian tù đày, người vợ vượt biên sang nước khác, nay đã không còn sống với anh nữa. Khi anh trở về hoàn toàn cô quạnh, sự nghiệp trắng tay và phải tự chuẩn bị cho mình một cuộc sống mới, chắc chắn anh phải đương đầu hoặc ẩn nhẫn với một xã hội có nhiều định kiến. Tôi luôn luôn tin tưởng một người có nghị lực và ý chí mạnh mẽ như anh sẽ vượt qua tất cả những khúc khuỷu gập ghềnh của cuộc đời. Trước nhất cần phải giữ “Nhẫn nhục phụ trọng”, chịu đựng cảnh “Nghịch thủy hành châu” để một ngày không xa sẽ tận hưởng “Khúc chung tấu nhã”. Tôi luôn khắc ghi những tình cảm tốt đẹp của anh trong tâm khảm của mình nên ghi tên anh đầu tiên trong những ân công của tôi trong tập hồi ký này …”.

     Phạm Trần Anh kể lại với tôi rằng ngày trở về:  “Tôi mỉm cười như tự nói với lòng mình “Một giấc ngủ trưa thế mà dài cả 20 năm trời ...”.  Tôi còn nhớ hôm anh em văn nghệ sĩ Sài Gòn tham dự buổi tiệc đưa nhà văn Uyên Thao đi Mỹ, nhà thơ Lê thị Kim đến hỏi tôi: “Anh Đức, anh Phạm Trần Anh đâu?”. Tôi chỉ bạn tôi, nhà thơ Lê Thị Kim chạy tới nắm chặt tay Phạm Trần Anh và nói: “Cho Kim được bắt tay người tù bất khuất hai mươi năm ...!”. Câu nói của người đẹp khiến tôi sực nhớ tới  giấc ngủ trưa, vâng một giấc ngủ trưa của Phạm Trần Anh dài hơn 20 năm gần nửa đời người...

    Sau khi đi tù về anh dành hết thời gian còn lại để hoàn thành công trình biên khảo lịch sử tìm về cội nguồn Việt tộc: Việt Nam, Đất Nước và Con Người gồm:

1. Nguồn Gốc Việt Tộc(1999).

2. Việt Nam Thời Lập Quốc (2000).

3. Việt Nam Thời Vong Quốc (2001).

4. Việt Nam Thời Độc Lập (2002).

5. Quốc Tổ Hùng Vương(2003).

6. Huyền Tích Việt (2004).

7. Sử Thi Đại Việt Nam (2005).

8. Còn Một Chút Gì (Thơ).

     Ngoài công trình nghiên cứu tìm về nguồn cội dân tộc, Anh còn góp mặt trong các Tuyển tập Duyên Thơ (1999), Hương Tình Yêu (2000), Tiếng Thơ (2001), Về Nguồn (2002), Tri Kỷ Hành (2003), Dáng Thơ (2004) Hương Quê (2005).

      Chúng tôi gặp lại nhau sau 28 năm xa cách, hai anh em ngồi nhắc nhớ những kỷ niệm một thời ở câu lạc bộ Phấn Thông Vàng, nhớ tới anh em thân hữu, bạn bè kẻ còn người mất !!! Một nỗi buồn lắng đọng tâm tư, cả hai không hẹn mà cùng buông tiếng thở dài ... Tôi chợt nhớ tới cái anh chàng lãng tử dạo nào ở Sài Gòn với cuộc sống lãng du, một tâm hồn lãng đãng dễ thương làm thơ hay ra phết và cô bé Trinh ngày đó, mỗi lần lên hát cũng lại bổn cũ soạn lại:  “Con đường xưa em đi, người ta mắc dây chì thế là em hết đi …” giờ này chắc cũng làm bà ngoại bà nội rồi còn gì ..!?.

     Phạm Trần Anh bây giờ đã bỏ Sài Gòn lên Lái Thiêu làm vườn nói là đào ao nuôi cá, vui thú điền viên để thư giãn tinh thần nhưng thực ra là để dồn hết tâm sức vào đam mê mới là tìm về nguồn gốc dân tộc, từ truyền thuyết tới hiện thực lịch sử. Tôi thắc mắc vì cả nhà anh đã ở bên Mỹ mà bây giờ trở về vẫn ở lại đây để cho công an theo dõi khó dễ đủ điều. Anh tâm sự với tôi là anh không thích đi Mỹ dù có điều kiện để đi vì sống ở đâu cũng không bằng ở quê hương mình dẫu cho khó thương, nói theo bài hát của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang. Tôi ngầm hiểu ẩn ý sau câu nói của Phạm Trần, tôi hiểu thương và nể phục quyết định ở lại Việt Nam của bạn tôi. Phạm Trần Anh tâm tình với tôi là: “Bây giờ bà cụ đã hơn tám mươi tuổi rồi và cũng đã lẫn rồi, lúc nhớ lúc quên. Bạn cũng hiểu tính tôi mà, tôi không có ý định rời bỏ quê hương mà không đi thì lỗi đạo làm con mà đi thì bị khó khăn ngãng trở đủ điều. Thôi thì việc đời hơi đâu mà lo, cái gì tới nó sẽ tới thế thôi ...”.

    Thật vậy, theo lời kể lại của Phạm Trần thì trước khi ra tù, một Đại tá cục an ninh của nhà nước cộng sản đến gặp và yêu cầu viết một tờ cam đoan là sau khi được tự do sẽ không chống đối chính quyền CHXHCNVN nữa. Anh không chịu cam kết và chỉ viết: “Kể từ ngày 3 tháng 8 năm 1997, dù muốn dù không tôi cũng là công dân của cái gọi là nhà nước cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nếu tôi làm bất cứ điều gì chống lại chính quyền thì cứ việc truy tố theo pháp luật của nhà nước CHXHCNVN thế thôi”. Sau khi anh không viết, tên đại tá nói: “Tuy ông được tự do nhưng ông nên nhớ là chúng tôi theo sát ông từng giờ từng ngày, đừng có hòng qua mặt chúng tôi. Tôi nói thẳng là tinh mạng của ông nằm trong tay chúng tôi. Ông có đi Mỹ được hay không cũng do chúng tôi quyết định. Tuy ông có hồ sơ đi Mỹ nhưng chúng tôi vẫn có cách để giữ lại nếu chúng tôi thấy ông là đối tượng nguy hiểm bất lợi cho chúng tôi ...”. 

      Khi về lại Sài Gòn theo thủ tục phải trình diện địa phương, công an thành phố cũng bổn cũ lập lại là yêu cầu anh cam kết đủ điều, anh từ chối dứt khoát dù biết rằng sẽ phải đương đầu chấp nhận mọi khó khăn cản trở từ chính quyền cộng sản. Đầu tiên là vấn đề hộ khẩu, anh cũng đi làm nhưng thiếu giấy tờ chứng minh đã từng cư ngụ ở Sài Gòn nên bị từ chối. Anh nói với công an thành phố là: “Tôi đã làm đầy đủ thủ tục qui định, nếu cơ quan công an khó dễ là do chế độ cộng sản chủ trương mà thôi. Từ ngày mai, tôi sẽ không làm bất cứ thủ tục nào nữa. Tôi lên làm vườn trên Lái Thiêu, chỗ đó hẻo lánh các anh tha hồ mà tổ chức gây án hình sự cướp bóc giết người để sát hại tôi”. Tên Trung tá vội thanh minh thanh nga nhưng cũng hàm ý đe dọa “Nhà nước không hề có chủ trương đó, ông cứ yên tâm tôi đảm bảo với ông là không có chuyện đó nếu ông không chống lại nhà nước ...”.

     Anh nói với tôi là anh hiểu rõ là cộng sản lúc này phải dùng đối sách mềm dẻo “Mềm nắn rắn buông” để tránh những phản ứng bất lợi cho họ nên anh cương quyết không nhượng bộ bất cứ yêu sách nào, đề nghị nào. Anh nói thẳng phủ đầu trước những ý đồ của họ để chặn tay bọn cộng sản vốn không từ bỏ bất cứ thủ đoạn hèn hạ nào. Một tuần sau, hội trí thức yêu nước thành phố gửi giấy đề nghị kê khai bằng cấp để mời anh tham gia, anh cũng kê khai nhưng phần nguyện vọng ghi rõ là tình trạng sức khoẻ đau yếu cũng như tri thức đã lâu, thời gian tù tội lâu ngày nên chẳng còn nhớ gì cả nên không thể tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Một thời gian sau, công an khu vực đưa giấy tờ đến điền vào giấy tờ xin hộ khẩu rồi đi làm cái gọi là “Chứng minh nhân dân”. Anh nói nếu mình nhượng bộ dù một chút thì dần dần sẽ bị vương mắc áp lực hoài nên tôi cương quyết ngay từ đầu và cũng nhờ vậy mà trong suốt thời gian ở Việt Nam tôi chẳng đi họp hành khu xóm một buổi nào, không đi bầu biếc gì và ngay những ngày mà họ gọi là lễ lớn mà nhà anh cũng không treo cờ quạt gì. Họ biết nhưng cứ lờ như là không có vấn đề gì xảy ra nhưng đó cũng là một trong những lý do họ đã cản trở việc anh xuất ngoại đoàn tụ với gia đình hơn 9 năm trời.

      Anh tâm sự “Mẹ tôi và cả gia đình bên Mỹ thì sợ ở lại sẽ bị Cộng Sản hãm hại nên cứ ép phải ra đi bằng mọi giá. Lại thêm cô vợ sau này cũng muốn thoát khỏi cảnh cộng sản o ép khủng bố, hù doạ đủ điều. Tôi cũng đành chiều ý gia đình làm lại thủ tục xuất cảnh. Khi đến sở xuất nhập cảnh để lấy passport thì họ lại yêu cầu cam kết là khi xuất ngoại không chống phá nhà nước, tôi cũng nói thẳng với họ là “Các anh đã biết là ngay khi còn ở trong tù tôi cũng chẳng cam kết một điều gì và bây giờ tôi cũng chẳng cam kết gì cả. Đi hay không là tùy các anh thế thôi”.  Thấy tôi kiên quyết thì họ cũng phải cấp “hộ chiếu” cho có lệ. Mình cũng tưởng cộng sản hù hè mình vậy thôi mà cuối cùng họ cũng 2 lần cản trở qua việc cấp đi cấp lại giấy chứng nhận lý lịch 2 lần ghi phần tiền án không ghi án tiết chung thân chống cộng. Cô vợ tôi làm đơn khiếu nại mấy năm sau lại ghi là có án chung thân vì tội danh hoạt động lật đổ chế độ Cộng sản Việt Nam. Phía Mỹ thì họ quá biết nhưng lại trả lời ẫm ờ là “Sở Tư pháp Thành phố cấp giấy mâu thuẫn với những điều tôi khai nên phải check lại”. Tôi hiểu là họ muốn gì nên không tính đi nhưng nhà tôi không chịu tiếp tục khiếu nại. Hiệu lực của giấy chứng nhận đã hết lại phải làm lại thì họ lại ghi là tiền án không, khiếu nại lần nữa thì họ lại ghi là có án chung thân. Sự việc cứ quẩn quanh cản trở mãi hơn 9 năm sau thì giấy tờ mới xong. "Cuối cùng là mẹ tôi mất bên Mỹ mà tôi vẫn chưa qua được, đành cam tội bất hiếu vậy thôi”. Tôi cười nói với Phạm Trần Anh là “Tôi coi tử vi thấy cái số của ông là luôn luôn phải xa gia đình và cũng do tính khí trời phú cho ông là không giống ai, ngay từ hồi còn là sinh viên đã xác định lập trường dân tộc nên Mỹ chẳng ưa mà Cộng sản lại càng thù ghét. Chứ nếu là người của Mỹ thì nó bốc lâu rồi mà dễ bảo thì cộng sản nó cũng đẩy đi từ lâu rồi”. Tôi nói tếu một câu: “Ông không nghe nghệ sĩ Ngọc Giàu nói một câu rất ư là cải lương nhưng lại rất đúng là giày dép còn có số huống chi là con người!”.

      Bên trong con người lý tưởng đam mê cách mạng ấy là cả một tâm hồn văn nghệ, lại có tài làm thơ. Thơ tuy ít nhưng nhưng đi vào lòng người với các bài: Tháng bảy mưa Ngâu, Khi anh về, Chiều cuối năm và huyền hoặc đã được các nhạc sĩ Châu Kỳ, Quốc An, Lê Thụ, Lê Hoàng, Kỳ Vân đồng cảm phổ thơ.  Thơ Phạm Trần đặc biệt luôn hướng về Quốc Tổ thấm đậm tự tình dân tộc, thơ đấu tranh và cả thơ tình nữa. Tôi thích bài Đối ẩm và bài “Lời thề sông núi” của Phạm Trần:

Mỗi ngày tù tội một lo âuBao năm mất nước bấy năm sầuMột lòng thề nguyện cùng sông núi,Yêu nước thương dân tới bạc đầu ...

      Tôi nghĩ đời mình còn chút may mắn là cuối đời vẫn còn những người bạn tốt. Phạm Trần Anh là một trong những người bạn tốt hiếm hoi, hiểu, an ủi và khích lệ tôi trên con đường tiếp tục làm thơ cho đời Khi gặp lại bạn hiền, tôi thức cả đêm dịch lại 2 câu thơ của Bùi Giáng tặng Phạm Trần: 

“Vĩnh dạ tư gia lại hà xứ,Tàn niên tri nhữ viễn lai tình ...”
Vào đêm xưa gặp nay đâu ..Cuối năm nghĩ lại, nhớ bao nghĩa tình!

      Phạm Trần lấy làm tâm đắc đọc hai câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du làm trong tù diễn tả nỗi lòng thù nhà nợ nước, không biết sợ chết là gì:

Tứ hải phong trần gia quốc lệ,Lục tuần lao ngục tử sinh tâm!

      Phạm Trần nói, ngày xưa Đạt Ma Sư tổ thì ngồi diện bích, ngồi nhìn tường mà tìm ra yếu quyết của võ học, còn mình thì bất đắc dĩ nó cùm chân suốt chín năm trời, ngày hai buổi cứ nhìn trừng trừng vào bức tường, cũng diện bích lòng không biết sống chết là gì nữa …

Quốc phá gia vong, vong quốc hận ...Cửu niện diện bích, bất tử tâm!

    Tôi thích hai câu thơ Phạm Trần dịch của Nguyễn Du mà bất cứ ai một lần đến Huế sẽ không bao giờ quên được ánh trăng khuya huyền hoặc trên sông Hương: Hương giang nhất phiến nguyệt, Kim cổ hứa đa sầu!

Sông Hương một mảnh trăng trong
Nhân gian muôn thuở sầu đong vơi đầy!

      Đọc thơ Phạm Trần, những ai có một mối tình lớn của Tản Đà, một chút u hoài sẽ tâm đắc và cảm nhận như chính nỗi lòng của mình. Thật vậy, xin một chút lắng đọng tâm tư để đồng cảm với nỗi lòng của Phạm Trần qua những vần thơ, thơ mà rất thật, thật mà như thơ. Để thay lời kết chương hồi ký viết về Phạm Trần Anh, xin tặng anh bài thơ kỷ niệm sau 23 năm ngày gặp lại:

Hai mốt năm qua trọn nghĩa tình,Mặc ba đào sóng gió chông chênhVẫn vững tay chèo khi nước ngược,Thuyền vẫn đến bờ, lúc gió lên ...
Xưa nay đời luận chi thành bại,Ngọn bút vung lên xoá hận thùHồn rượu núi sông say Tổ quốc,Đối mỹ nhân hề … chí trượng phu 
!

Sài Gòn Lập Đông Mậu Dần
PHỔ ĐỨC

- See more at: http://www.dienhongthoidai.com/2015/02/oan-truong-bat-khuat-cua-pham-tran-anh.html#sthash.WZGPnN7k.dpuf

No comments:

Post a Comment