CON
NGƯỜI THẬT CỦA VÕ NGUYÊN GIÁP
Cho
đến hôm nay, sau cái chết của “Người
Hùng Điện Biên, Người anh cả của quân đội Nhân Dân” theo cách gọi của nhà nước
CSVN thì dư luận mới nguôi ngoai nhưng vẫn để lại trong lòng mỗi người những cảm
nghĩ riêng. Không riêng gì người dân Việt Nam mà ngay cả người ngoại quốc cũng
có những cái nhìn trái ngược nhau về nhân vật này. Thật tình mà nói, số lượng
đông đảo người dân đến dự đám tang với những bức ảnh cầm trên tay và những giọt
nước mắt thi nhau tuôn trào khiến cả thế giới ngạc nhiên xem như một hiện tượng
chỉ xảy ra trong chế độ Cộng sản. Thế nhưng nếu tính theo số lượng đảng viên,
quân đội, cán bộ, đối tượng đoàn, đối tượng đảng, giai cấp tư bản đỏ, giai cấp
mới thống trị của thành phố Hà Nội và các tỉnh xung quanh thì hàng người đứng
dài cả hàng cây số là quá ít chưa đạt yêu cầu…
Hình
ảnh này nhắc chúng ta về một rừng người dân Bắc Triều Tiên khóc vật vã, khóc đứng
khóc ngồi một lãnh tụ độc tài khét tiếng đã làm cho người dân đói khát khốn khổ…
Thật không thể nào lý giải được cái nghịch lý trớ trêu này nếu không sống dưới
chế độ CS, không hiểu thế nào là tuyên truyền nhồi sọ, thế nào là “phản ứng có
điều kiện của Parlov”… Người dân Bắc Triều Tiên từ lúc sinh ra đã đói khổ triền
miên nhưng vẫn phải đi “Học tập” hàng đêm về lãnh tụ vĩ đại, về chủ trương
chính sách của đảng và nhà nước giống như người dân miền Nam sau ngày
30-4-1975. Thoạt đầu còn suy nghĩ thấy những điều phi lý nhưng nghe mãi, nhồi
nhét mãi thì cứ nghe chẳng còn suy nghĩ gì nữa cho đến 5, 10 năm, 20 năm nghe
mãi cũng nhập tâm, trở thành phản xạ có điều kiện, cứ mở miệng ra là lãnh tụ
Kim Nhật Thành vĩ đại, Hồ chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự (thất) nghiệp của
chúng ta.
Khổ
một nỗi là sống trong một xã hội công an trị, bị kềm kẹp từ gia đình từ khu xóm
nên vẫn phải nói như một cái máy những điều mà bộ máy tuyên truyền của nhà nước
CS nhồi nhét vào đầu hàng chục năm trời. Thỉnh thoảng, đang đói khát được Kim
lãnh tụ ban phát cho một món quà nho nhỏ chẳng đáng gì nhưng vẫn thấy quý, vẫn
mang ơn mưa móc của lãnh tụ. Tâm trạng này chẳng khác gì hồi anh em viên chức
sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị chế độ CS đầy đọa trong các trại tù với phần
ăn chỉ đủ kéo dài sự sống cầm hơi. Một năm, mỗi dịp đến cái gọi là “Lễ lớn” mỗi
người tù được phát cho 1 miếng thịt bằng 2 ngón tay còn quanh năm suốt tháng chỉ
có canh đại dương là rau với muối nên oái oăm thay, dù không ưa thích gì nhưng
vẫn nói với nhau là sắp đến “Lễ lớn” rồi… Nhân loại bước vào thế kỷ thứ 21 với
những tiện nghi vật chất dư thừa trong thế giới tự do nên ngạc nhiên khi nhìn
trên TV thấy “Một lãnh tụ vĩ đại trẻ con” cầm từng chiếc đồng hồ ban phát cho
tướng tá, sĩ quan mặt mày hớn hở, khúm na khúm núm thì mới hiểu thế nào là xã hội
chủ nghĩa, thế nào là thiên đường CS…
Thế
nhưng hiện tượng khóc lóc ở Việt Nam có phần hơi khác Bắc Triều Tiên một chút
vì những lý do sau đây:
Cái
chết của “Đại Tướng” Võ Nguyên Giáp lại đến đúng lúc lòng dân, lòng quân chán
ghét chế độ đến tận cổ khi hội nghị trung ương 8 ngoan cố giữ điều 4 hiến pháp
cho đảng CS độc quyền cai trị và quyền sở hữu toàn dân để tự do cướp đoạt ruộng
vườn nhà cửa của người dân nhân danh sở hữu toàn dân. Nhất là việc cúi đầu nhường
đất, dâng biển bán nước của tập đoàn Việt gian CS nên nói như nhiều người dân
nghĩ là Đảng và nhà nước vẫn để cho “Đại Tướng” sống cho đến giờ phút cần thiết
thì cho “Đại Tướng” chết đúng lúc là như vậy. Còn nhớ Hồ Chí Minh vĩ đại chết
ngày 2-9 nhưng đảng quyết định ngày 3-9 mới được chết đó sao? Thế là Đảng tổ chức
quốc tang rầm rộ dù rằng lúc sống thì trù dập từ chết tới bị thương, sống ngắc
ngoải chết dần mòn mặc xác…
Tất
cả sức mạnh của hệ thống đảng được huy động đến mức tối đa. Cả một chiến dịch
phát động qui mô từ ban Bí thư Trung ương đảng, ban Văn hóa tư tưởng xuống tới
các cấp tỉnh ủy, huyện ủy, xã ủy là phải huy động tối đa đảng viên, cán bộ, đối
tượng đoàn, đối tượng đảng phải tuyên truyền vận động nhân dân biết ơn người
anh cả quân đội, người đảng viên lão thành có công “Giải phóng dân tộc”. Tổng
quân ủy trung ương chỉ thị mỗi trung đoàn, mỗi tiểu đoàn phải thiết lập bàn thờ
“Đại Tướng” và phải vận động gia đình, quần chúng nhân dân vào đốt nhang viếng
“Đại Tướng”. Trong phạm vi Hà Nội và Quảng Bình, thành ủy và tỉnh ủy đã thiết lập
hàng trăm bàn thờ, các trướng đại học, trung học tổ chức cho sinh viên học sinh
xếp hàng viếng “Đại Tướng”, hàng trăm ngàn bức hình được in để kịp phân phát
cho mọi người cầm tay… Khu xóm, phường xã huy động nhân dân đi viếng “Đại Tướng”…
khiến mọi người nhất là ký giả ngoại quốc phải “choáng Ngợp” trước hình ảnh người
dân biết ơn “Đại Tướng”. Phim ảnh được chuyển tối đa qua hệ thống truyền thông
của nhà nước đi ròng rã 2 ngày, thế nhưng giữa trưa ngày thứ hai phải dẹp cờ rũ
ngay lập tức để đón đồng chí thủ tướng Lý Khắc Cường của đàn anh vĩ đại…
Thật ra, chúng
ta cũng không ngạc nhiên gì khi không ít cán bộ đảng viên, người dân Việt Nam sống
ở miền Bắc cho đến giờ phút này vẫn còn tin Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp có công
giải phóng dân tộc.
Lý do đơn giản là bị tuyên truyền nhồi nhét hàng chục năm trời rồi ngày ngày phải
đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm đủ hai bữa ăn thì còn thì giờ đâu mà tìm hiểu sựt
thật lịch sử. Nếu tất cả mọi người dân Việt Nam biết rằng cái gọi là giải phóng
dân tộc chỉ là bánh vẽ mà thực chất là lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để
bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả Đông Dương mở đường xuống Đông Nam Á thì
làm sao chế độ bạo tàn này còn tồn tại đến ngày nay. Nếu Hồ Chí Minh không phải
là cán bộ của quốc tế cộng sản, nếu Trung Cộng và Liên Sô không công nhận nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa là thành trì Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á
ngày 18 và 31 tháng 1 năm 1950 thì dân tộc Việt đâu phải chịu biết bao thương
đau mất mát, khốn khổ khốn nạn như ngày nay… Chính Hồ Chí Minh đã đưa VNDCCH gia nhập hàng ngũ CS quốc tế nên cuộc
chiến Việt Nam kể từ giờ phút đó đã trở thành cuộc chiến tranh ý thức hệ đối đầu
quyết liệt giữa 2 khối CS và Tư bản khiến gần 5 triệu người dân Việt Nam vô tội
ở cả 2 miền Nam Bắc phải hy sinh một cách oan uổng cho ý đồ xâm lược bành trướng
của Cộng Sản.
Thực
tế cho chúng ta thấy rằng sau thế chiến thứ hai, sự ra đời của Liên Hiệp Quốc và
nhất là chủ trương giải thực của Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt đã mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc của các quốc gia Đông
Nam Á dâng lên cao độ. Indonesia tuyên bố độc
lập ngày 17 tháng 8 năm 1945 và sau đó tiến
hành một cuộc chiến chống lại thực dân Hà Lan đang tìm cách quay trở lại, Hoa
Kỳ trao trả độc lập cho Philippines năm 1946, Burma giành lại độc lập từ tay
người Anh năm 1948 và Pháp chính
thức rút khỏi Đông Dương sau hiệp định Genève 20-7-1954. Thế nhưng, các nước
Đông Nam Á chưa giành được độc lập dân tộc thì chủ nghĩa Cộng Sản lại bành
trướng để nô dịch các dân tộc khác dưới chiêu bài giải phóng dân tộc dẫn tới
một cuộc chiến tranh ý thức hệ mà chúng ta thường gọi là chiến tranh lạnh. Để
chống lại mối đe doạ từ chủ
nghĩa cộng sản, người Anh đã trao lại độc lập cho Malaya và sau đó là Singapore, Sabah và Sarawak năm 1957 và 1963 bên trong
khuôn khổ Liên bang Malaysia. Năm 1975, sự cai trị
của người Bồ Đào Nha ở Đông Timor chấm dứt. Cuối cùng. Anh Quốc chấm dứt sự bảo
hộ của mình đối với Quốc gia Hồi giáo Brunei năm 1984, đánh dấu sự
kết thúc của chế độ thực dân Châu Âu trên vùng Đông Nam Á.
Những nhà tâm lý học thường nói về
tâm lý thụ động, hành động vô thức theo đám đông với hình ảnh một đàn cừu thì
con cừu đầu tiên đi đâu là cả đàn đi theo. Một con bước xuống nước là cả đàn
lội xuống nước để chết chìm. Trong đám đông, tâm lý quần chúng không tự chủ
được mình, bị cuốn hút vào những kích động nên khi một vài người khóc, người
khác nhìn thấy cũng mủi lòng khóc theo như một phản ứng dây chuyền, khóc một
cách tự nhiên để rồi sau đó cũng không hiểu vì sao mình khóc. Thế nhưng, trong
số những giọt nước mắt hôm đó, không ít người đã khóc cho thân phận của họ Võ
nhất là những người đấu tranh dân chủ có tấm lòng đối với đất nước vì lúc cuối
đời viên tướng họ Võ này ít ra cũng còn lên tiếng về nạn khai thác bauxite trên
Tây Nguyên, về việc giải tỏa công trường Ba Đình xây quốc hội, quyết định sát
nhập Hà Đông vào Hà Nội… Một nhận định khách quan của nhà văn Võ thị Hảo, TS
Nguyễn Quang A ở trong nước và một TS ở ngoại quốc đã cho chúng ta một cái nhìn
rõ hơn về vấn đề này. “Suốt cuộc đời “cụ”
chỉ phục vụ cho đảng CS mà thôi, cụ không phải là người đối lập như nhân dân kỳ
vọng”. Nhà văn Võ Thị Hảo nói lên sự thật đó là “Những giọt nước mắt của người dân đã rơi xuống cho chính bản thân họ,
cho những ước vọng bất thành vì lý ra, họ cũng được hưởng dân chủ tự do, được
hưởng hạnh phúc như công dân của những nước khác. Chính vì vậy, đảng và nhà
nước CS trước đây bạc đãi cụ Giáp nhưng khi chết lại tổ chức “Quốc tang” để
nhân dân tập trung hướng về cái gọi là “Công giải phóng dân tộc của Đảng” mà
quên đi những khốn khó thương đau mà đảng CS đã bắt họ phải chịu đựng. Cái thời
kỳ “Đại tự sự” đã qua rồi, người dân Việt Nam cũng đã hiểu rõ hết rồi nên mọi
người, kể cả những người có chức có quyền hãy suy nghĩ để tự cứu chính mình và
giúp cho mọi người…”. Thành ra, chúng ta đừng nghĩ rằng đám đông nhân dân
dự đám tang Võ Nguyên Giáp là ủng hộ đảng và nhà nước CS mà sự tham dự đông đảo
còn gián tiếp biểu lộ sự bất mãn với chế độ nên họ khóc cho chính họ, họ khóc
vì hy vọng cuối cùng không còn nữa mà chỉ có con đường tự do cơm áo hay là chết
mà thôi. Chính vì vậy, một bình luận gia
quốc tế đã nói rằng bên cạnh những giọt nước mắt thì trong lòng mỗi người dân
là một khối thuốc nổ âm ỉ không biết bùng nổ bất cứ lúc nào…
Bây giờ chúng ta
trở lại vấn đề chính để trả lời Võ Nguyên Giáp có phải là một danh tướng hay
không?
Câu trả lời là Võ Nguyên Giáp là một “danh tướng” nhưng chỉ là “danh tướng trên
danh nghĩa” mà thôi còn thực tế thì sao? Chúng ta lần lượt phân tích từng điểm
để trả lời đúng đắn câu hỏi nói trên:
Trước
đây, không ít người xem Võ Nguyên Giáp là một vị tướng giỏi như nhiều người
khác đã nhận xét rằng “Đại Tướng” Võ Nguyên Giáp đã đánh bại 4 viên tướng nổi
tiếng của Pháp và cả viên Đại Tướng Hoa Kỳ William Westmoreland. Thế nhưng, sau
này khi đọc lại nhiều tài liệu từ nhiều giới buộc chúng ta phải đặt lại vấn đề,
phải phục hồi sự thật lịch sử. Thật vậy, nghiên cứu các nguồn sử liệu về toàn bộ
cuộc chiến Việt Nam, chúng ta mới có cái nhìn khách quan trung thực về những sự
kiện lịch sử. Sau chiến tranh Việt Nam có cả trăm cuốn sách được viết từ nhiều
phía nhưng đa số là những cuốn sách tuyên truyền nên tự thân, đã nói lên sự thiếu
khách quan trung thực của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải tổng kết cuộc chiến
Việt Nam mới thấy rõ toàn bộ vấn đề.
“Cuộc chiến Việt Nam đã xem như chấm dứt được
ba mươi bảy năm nhưng vẫn còn để lại những “Hội Chứng Việt Nam” trong lòng tất
cả con dân nước Việt. Cho đến ngày nay, kể cả những người từng tham dự cuộc chiến,
cầm súng chiến đấu vẫn không nhận chân được vấn đề là bản chất của cuộc chiến
Việt Nam? Chiến tranh Việt Nam có phải là cuộc chiến để giành độc lập dân tộc
như Cộng Sản Việt Nam vẫn rêu rao tuyên truyền? Thật vậy, đồng bào miền
Bắc nhất là các đảng viên đoàn viên bị nhồi nhét tuyên truyền “Bác Hồ” là người
yêu nước và đảng Cộng sản Việt Nam có công giành lại độc lập từ tay thực dân
Pháp. Trong khi đó, Đồng bào trong Nam thì chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến
tranh ý thức hệ để ngăn chặn làn sóng đỏ, bảo vệ miền Nam tự do. Đối với đa số
quần chúng nhân dân thì hiểu đơn giản là cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn. Thật
vậy, đối với quần chúng và nhất là giới nghệ sĩ thì đó là một cuộc nội chiến
tương tàn “Ba mươi năm nội chiến từng
ngày ...” nồi da xáo thịt “Người chết
hai lần ... thịt da nát tan ...!” khiến hơn 4 triệu đồng bào Việt Nam ở miền
Bắc đã hi sinh cho một cuộc chiến vô nghĩa. Sở dĩ CSVN còn tồn tại tới giờ này vì đa số đảng viên CS tuy thất vọng
về tập đoàn lãnh đạo Việt gian CS nhưng vẫn còn biện minh, bám víu vào luận điểm
cho rằng HCM và đảng CSVN có công giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Một
khi biết rõ sự thật lịch sử thì họ sẽ cùng với toàn dân đứng lên chuyển đổi lịch
sử trong nay mai.
Chính vì vậy, chúng ta phải tìm hiểu bản chất
của cuộc chiến hay nói cách khác, hiểu rõ ý đồ của các thế lực quốc tế toan
tính những gì trên xương máu mồ hôi và nước mắt của toàn dân Việt Nam, từ đó
chúng ta mới thấy rõ toàn bộ vấn đề. Để hiểu rỏ bản chất cuộc chiến Việt Nam, với
tư cách một người nghiên cứu lịch sử trên quan điểm dân tộc, chúng tôi chỉ đưa
ra những nhận định trung thực không nhằm mục đích tuyên truyền cho một chế độ
nào, một đảng phái chính trị nào.
Lịch sử đã minh chứng rằng sau khi Trung
Cộng và Liên Sô công nhận nhà nước VNDCCH là thành
trì công nông đầu tiên ở Đông Nam Á có nghĩa là chủ nghĩa CS đã bành trướng đến
Bắc Việt Nam thì ngày 7 tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ, Anh và các nước thế giới tự do công
nhận chính phủ Quốc gia Bảo Đại. Đến thời điểm lịch sử này thì cuộc chiến Việt
Nam đã chính thức chuyển sang cuộc chiến tranh ý thức hệ đối đầu giữa CS và Tư
bản chứ không còn là chiến tranh giải phóng dân tộc nữa như CS vẫn lợi dụng để
tuyên truyền kêu gọi người VN yêu nước đứng lên “Chống Mỹ cứu nước”. Sau hơn 30 năm, chúng ta mới biết cả Liên Sô Trung Cộng lẫn Bắc Triều Tiên đều tham chiến ở Việt Nam. Sự thật lịch sử
này được một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao TQ phát biểu như sau: “Những vòng hoa nơi này là của người Việt
Nam mang đến, người dân nơi đây rất kính trọng các liệt sỹ của chúng ta. Trong
giai đoạn giúp Việt chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp
không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân
viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải ... 16
chi đội (trong quân đội TRUNG QUỐC
tương đương với trung đoàn, hoặc sư đoàn?), hơn 30 vạn
người ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh. Tác chiến đối không 2153
lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ, bắt sống 42 phi công Mỹ, viện trợ Việt Nam xây
dựng Hải Phòng, Hòn Gai, các thành phố duyên hải và xây dựng hệ thống phòng ngự
ở tam giác châu thổ sông Hồng, tu sửa và xây dựng các tuyến đường huyết mạch,
sân bay, tuyến đường sắt đông tây, mở đường trên biển và chi viện cho đường mòn
Hồ Chí Minh. Từ năm 1950 đến năm 1978, TQ đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ
mỹ kim, và trong đó đến 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu
mà 1446 chiến sỹ đã hy sinh, 4200 người trọng thương... những hy sinh đó tuyệt
đối không thể tính được bằng tiền". Đó là lý do
tại sao CS Việt gian phải dâng đất nhường biển cho quan thầy TC. Gần đây, chúng
ta mới biết được là các đơn vị phòng không Liên Sô, phi công Bắc Hàn cũng tham
dự cuộc chiến tranh VN. Vấn đề đã sáng tỏ là CSVN chỉ là công cụ
của CS quốc tế để bành trướng chủ nghĩa CS đưa dân tộc Việt vào thế khốn cùng
như ngày nay.
Sau
hơn ba thập niên, sự thật lịch sử của cuộc chiến Việt Nam đã cho chúng ta những
nhận định sau:
1.
CHIẾN TRANH VIỆT NAM KHÔNG PHẢI LÀ CUỘC CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP
DÂN TỘC.
Cộng sản Việt Nam vẫn tuyên truyền rêu rao là
đã hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi sự thống trị của 2 đế quốc
Pháp và Hoa Kỳ. Thế nhưng, sự thật là sau khi quân Nhật lật đổ chế độ thực dân
Pháp, ngày 11-3-1945, Cơ Mật Viện triều
Nguyễn đã tuyên bố “Hủy bỏ Hiệp ước 1884 qui định Pháp bảo hộ Việt Nam và Khôi
phục chủ quyền cuả một nước Việt Nam độc lập”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên
tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập. Nhận chỉ thị của Cộng
Sản quốc tế đấu tranh vũ trang lật đổ chế độ quốc gia Việt Nam, ngày 19 tháng 8
năm 1945, đảng Cộng Sản Việt Nam núp dưới danh nghĩa Việt Minh cướp chính quyền.
Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập và thành lập nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6-3-1946, Hồ
Chí Minh ký thỏa hiệp sơ bộ với thực dân Pháp đồng ý để quân Pháp ra Bắc
thay thế quân đội Trung Hoa giải giới quân Nhật để lợi dụng cơ hội này tìm cách
tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Sau khi cấu kết với thực dân Pháp bất thành, ngày 19-12-1946, Hồ Chí Minh kêu gọi “Toàn
quốc kháng chiến”, cuộc chiến tranh Việt Minh và Pháp bắt đầu.
Tháng 12,1947, Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long được
ký kết giữa Cao Ủy Pháp Bollaert với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền
độc lập của Việt Nam. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của
Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia
chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết. Ngày
8-3-1949, TổngThống Cộng Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với
Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập
trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam
Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống
nhất.
Lịch sử đã chứng minh rằng, Cộng sản Việt Nam
đã núp dưới danh nghĩa kháng chiến, lợi dụng lòng yêu nước của người dân Việt
Nam để nhuộm đỏ cả Đông Dương, bành trướng chủ nghĩa CS mở đường xuống Đông Nam
Á. Chính Hồ Chí Minh đã không giấu giếm sự thật khi gặp Salisbury tai Hà Nội
năm 1965: “Những ngày tuyệt diệu rồi đây sẽ đến khi tất cả các đồng chí đã đến bên
nhau. Tất cả mọi người đang nỗ lực tranh đấu để đem đến sự thành công của Miền
Bắc Việt Nam, đó chính là sự thành công của những người Nga, những người Tàu,
và những chế độ tại Đông Âu. Tất cả đều muốn làm cho Miền Bắc Việt Nam trở
thành một mẫu mực, một nơi triển lãm thu hút muôn người, và một mẫu mực lý tưởng
của chủ nghĩa Cộng sản có thể đưa đến cho các dân tộc tại Á Châu và đặc biệt nhất
là vùng Đông Nam Á.”. Đây là bằng chứng quá rõ ràng cho mọi người thấy
Hồ Chí Minh đã không bao giờ thực tâm tranh đấu vì Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc
cho dân tộc Việt Nam mà sử dụng cả dân tộc Việt Nam như một công cụ để phục vụ
tham vọng bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản Nga Sô.
2.
CUỘC CHIẾN VIỆT NAM LÀ CUỘC CHIẾN TRANH Ý THỨC HỆ.
Tháng 1
năm 1945, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc xin đứng vào hàng ngũ quốc tế CS nên ngày
18-1-1950 Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng) công nhận chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng Hòa. Ngày 31-1-1950, Liên Sô công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
là thành trì công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Sự kiện lịch sử này đánh dấu một
bước ngoặt lịch sử là VNDCCH chính thức đứng vào hàng ngũ cộng sản nên ngày
7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh và các nước thế giới tự do công nhận chính phủ quốc gia Bảo
Đại để ngăn chặn làn sóng đỏ tràn xuống Đông Nam Á. Cuộc chiến Việt Nam chính
thức trở thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng sản và thế giới tự do. Sau
khi Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu
Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore.Việt
Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được
…”. Tháng 4 năm 1959, Ủy ban Trung ương đảng họp lần thứ 15 quyết định thành lập
Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ngày 20-12-1960, với chiêu bài “Đánh
đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm,
xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập, tiến tới thống
nhất tổ quốc”. Sau khi chiếm được cả miền Nam, chính Lê Duẫn, tổng bí
thư của đảng CSVN đã xác nhận một lần nữa:“Chúng ta đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” là đánh
cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc và ngày nay, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”.
Bộ mặt thật của CS đã phơi bầy trước lịch sử. Cuộc kháng chiến của dân tộc đã bị
lợi dụng, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã hy sinh hàng triệu người VN vô tội để
bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả Đông Dương.
3.
CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM ĐỐI ĐẦU GIỮA CS VÀ TƯ BẢN KHIẾN SINH LỰC CỦA DÂN
TỘC BỊ TIÊU HAO TRẦM TRỌNG.
Trước đây, chúng ta bị bộ máy tuyên truyền của
Cộng sản lừa dối rằng lực lượng đồng minh Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi
Luật Tân, Thái Lan và Đại Hàn đến Việt Nam để chống lại một nước nhỏ bé là Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nhân dân miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sau hơn 30 năm,
chúng ta mới biết cả Liên Sô, Trung Cộng lẫn Bắc Triều Tiên đều tham chiến ở Việt
Nam. Việt Nam trở thành chiến trường giữa 2 khối Cộng Sản và thế giới tự do. Theo sự tiết lộ của Đại sứ Trung Cộng Nguyễn Khổng Khưu thì
Trung Cộng đã điều động hơn 300 ngàn binh lính và sĩ quan tham chiến. Đỉnh điểm
của sự can dự từ phía Trung Quốc vào cuộc chiến Việt Nam là năm 1967, khi tổng
số lực lượng phòng không quân đội Trung Cộng tại Việt Nam lên tới 17 sư đoàn,
với 150.000 lính.
Sự thật lịch sử này được một phát ngôn viên Bộ
Ngoại giao Trung Quốc phát biểu như sau: “Trong giai đoạn giúp Việt Nam chống Mỹ, nhân
dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực,
vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải
quân, không quân, hậu cần vận tải ... 16 sư đoàn, hơn 300.000 lính Hồng quân
Trung Quốc ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh. Tác chiến đối không
2153 lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ, bắt sống 42 phi công Mỹ, viện trợ Việt Nam
xây dựng Hải Phòng, Hòn Gai, các thành phố duyên hải và xây dựng hệ thống phòng
ngự ở tam giác châu thổ sông Hồng, tu sửa và xây dựng các tuyến đường huyết mạch,
sân bay, tuyến đường sắt đông tây, mở đường trên biển chuyên chở vũ khí vào miền
Nam và chi viện cho đường mòn Hồ Chí Minh. Từ năm 1950 đến năm 1978, TQ đã viện
trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, trong đó 93% là viện trợ không hoàn lại, đó
là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đã hy sinh, 4200 người trọng thương... những
hy sinh đó tuyệt đối không thể tính được bằng tiền".
Gần đây, chúng ta mới biết được là các đơn vị
phòng không Liên Sô và phi công Bắc Hàn cũng tham dự cuộc chiến tranh VN. Cựu Trung Tướng Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Sô tại Việt Nam tiết lộ rằng
Liên Bang Sô Viết đã gởi một trung đoàn phòng không với đầy đủ vũ khí và trang
bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính phòng không Liên Xô đã chết trên
chiến trường miền Bắc. Trung đoàn phòng không Liên Sô đã bắn rơi những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên
trên bầu trời Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ A-4 Skyhawk của Thượng Nghị Sĩ John McCain. Theo tiết lộ của cựu trung tướng Liên Xô Yevgeni Antonov, chỉ huy lực lượng phòng không Liên Sô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970
thì Việt Nam là một phòng thí nghiệm cho vũ khí Liên Sô để chuẩn bị cho việc máy
bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Sô trong trường hợp có chiến tranh giữa
hai khối sau này. Mặt khác, theo tiết
lộ mới nhất và chắc chắn là mới chỉ là một phần sự thật của một cựu sĩ quan
Liên Sô trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, Nikolai Kolesnik viết trên báo Tiếng
Nói Nước Nga ngày 25/12/2012 nhiều trang quân sự của Nga đăng lại thì Liên Sô
đã đưa trên 10 ngàn chuyên gia quân sự trực tiếp chỉ huy và tham chiến tại Việt
Nam và vào thời kỳ cao điểm của chiến tranh, mỗi ngày Liên Xô đã chi phí khoảng
2 triệu USD cho chiến tranh Việt Nam bao gồm viện trợ không hoàn lại cho VNDCCH
2.000 xe tăng, 7.000 khẩu pháo và súng cối, hơn 5.000 nòng súng, pháo
phòng không các loại và các tổ hợp kỹ thuật, 158 tổ hợp tên lửa phòng không,
hơn 700 máy bay chiến đấu, 120 máy bay trực thăng và 100 tàu chiến các loại…
Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng chính Hồ
Chí Minh, cán bộ của CS quốc tế đã đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh ý hệ, hy
sinh xương máu của hàng triệu người dân lành vô tội để bành trướng chủ nghĩa CS
xuống toàn cõi Đông Dương. Sinh lực của dân tộc bị tiêu hao trầm trọng, hàng
triệu người dân vô tội hy sinh, đất nước nghèo nàn tan hoang đổ nát, lòng người
ly tán. Cái gọi là thống nhất đất nước chỉ là sự xâm lăng của bạo lực và hận
thù khiến dân tộc Việt Nam ly tán, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự
do. Cộng sản Việt Nam đã phơi bầy bản chất độc tài dã man trả thù, hành hạ đày
đọa quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tù gọi là “Cải tạo”
cùng với biện pháp đổi tiền, đánh tư bản mại sản, bắt đi kinh tế mới để tước đoạt
tài sản của nhân dân… Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng đã “Thống nhất được đất
nước” nhưng thực tế đã chứng minh rằng cái gọi là giải phóng miền Nam đã để lại
trong lòng dân tộc một sự phân ly ngăn cách không gì có thể hàn gắn được.
4.
HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN CHÍNH LÀ TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Điều 1 của Hiến chương Hội Quốc Liên và Liên
Hiệp Quốc đều nhấn mạnh đến quyền dân tộc tự quyết. Phong trào giải thể chế độ
thực dân là xu thế của thời đại được ghi rõ trong Hiến Chương Đại Tây Dương
1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Các đế quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Hòa Lan
đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho các thuộc địa Á Châu như Phi Luật
Tân, Syrie và Liban năm 1946, Ấn Độ và Pakistan độc lập năm 1947, Miến Điện-Tích
Lan và Palestine năm 1948, Việt Nam-Ai Lao, Cao Miên và Nam Dương năm 1949.
Chính vì Hồ Chí Minh và nhà nước VN Dân chủ Cộng Hòa đứng vào hàng ngũ CS, chủ
trương đấu tranh võ trang cướp chính quyền để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản
nên dân tộc Việt mới hứng chịu thảm họa khốc liệt của chiến tranh. Hàng triệu người Việt Nam vô tội phải hy
sinh, gia đình Việt Nam nào cũng chịu cảnh thương đau mất mát, thống khổ triền
miên. Chính Cộng Sản Việt Nam đã đưa dân tộc Việt Nam vào thế trên đe dưới búa
của cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng Sản và thế giới tự do.
Chính Cộng Sản Việt Nam đã rước voi Mác Lê về
giầy mả tổ Hùng Vương, cõng rắn độc Trung Cộng về cắn gà nhà dân tộc khiến gần
4 triệu người dân Việt đã hy sinh cho cuộc chiến tranh phi nghĩa này để rồi đất
nước Việt Nam sau hơn 30 năm vẫn là một nước nghèo nàn chậm tiến nhất thế giới. Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN chính là tội đồ
của dân tộc Việt Nam.
5.
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM LÀ CÔNG CỤ CỦA ĐẢNG CSVN.
Trong chiến tranh, Cộng Sản rêu rao tuyên truyền
Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do những người miền Nam đứng lên “Chống Mỹ
Cứu Nước” nên được giới trí thức tả khuynh trong phong trào phản chiến ủng hộ.
Sau khi đem quân xâm chiếm Tây Tạng năm 1959, Mao Trạch Đông đã chỉ thị phải
chiếm miền Nam VN bằng mọi giá để mở đường xuống Đông Nam Á nên ngày
20-12-1960, đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam. Sau khi xâm chiếm miền Nam Việt Nam, ngày
2-7-1976, Quốc hội Cộng sản tuyên bố thống nhất Việt Nam, đặt tên nước là Cộng
Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cờ và hiến pháp là cờ và hiến pháp của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Phạm văn Đồng tiếp tục làm Thủ tướng. Cái gọi là “Mặt trận
Dân tộc Giải phóng” và “chính quyền Lâm thời Việt Nam” bị giải tán. Ngày 14 đến 20-12-1976, Đại hội Đảng Lao Động
họp lần đầu quyết định lấy lại tên là đảng Cộng sản Việt Nam, Lê Duẫn được
bầu là Tổng Bí Thư. Bộ mặt thật của đảng Cộng sản Việt Nam đã phơi bầy trước lịch
sử. Sự kiện này chứng tỏ việc loan báo đảng CS Đông Dương tự giải tán ngày 11-11-1945 rồi thành lập đảng lao Động 16-3-1951 chỉ để che giấu bản chất CS,
lừa dối nhân dân dưới danh nghĩa đảng Lao Động. Núp dưới danh nghĩa Việt Minh,
dùng chiêu bài kháng chiến giành độc lập dân tộc nhưng thực chất là lợi dụng
xương máu của đồng bào để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ Việt Nam và các nước
Lào, Camphuchia mà thôi.
6.
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ HY SINH HÀNG TRIỆU NGƯỜI VN VÔ TỘI ĐỂ TIÊU HAO
SINH LỰC HOA KỲ CHO LIÊN SÔ VÀ TRUNG QUỐC.
Khi bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản xuống Đông
Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, cả Liên Sô lẫn Trung Quốc đều chủ trương
đánh Mỹ, tiêu hao sinh lực Hoa Kỳ cho đến người Việt Nam cuối cùng để bành trướng
chủ nghĩa Cộng Sản. Mỗi năm Hoa Kỳ đã chi tiêu 20 tỷ dollars cho chiến tranh
trong khi Liên Sô chỉ chi viện 1 tỷ dollars khiến ngân sách Hoa Kỳ kiệt quệ. Đảng
CS Liên Sô đã thành công trong việc phân hóa hàng ngũ lãnh đạo Hoa Kỳ khiến nội
tình nước Mỹ bị chia rẽ trầm trọng. Cái gọi là “Hội chứng Việt Nam” đã làm mất
niềm tin nơi người dân Hoa Kỳ và của cả đồng minh của Hoa Kỳ trên thế giới nữa.
7.
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ HY SINH HÀNG TRIỆU NGƯỜI VIỆT NAM VÔ TỘI ĐỂ MỞ ĐƯỜNG
CHO ĐẾ QUỐC MỚI TRUNG CỘNG TIẾN XUỐNG ĐÔNG NAM Á.
Đối với đế quốc mới Trung Cộng đây là một thắng
lợi vì chiếm được miền Nam làm bàn đạp mở đường tiến xuống Đông Nam Á, mặt khác
cuộc chiến Việt Nam đã hủy hoại tiềm lực của Việt Nam để Trung Quốc dễ bề thống
trị. Chính vì món nợ trong chiến tranh nên Cộng Sản Việt Nam phải dâng đất nhường
biển cho Trung Quốc. Khi Liên Sô còn tồn tại, Lê Duẫn đã theo Liên Sô và ký hiệp
ước Hợp Tác Hữu nghị với Liên Sô ngày 17-11-1978 rồi đem quân sang Kampuchea
đánh Polpot thân Trung Quốc. Khi Liên Sô sụp đổ, tập đoàn Việt gian CS phải kéo
nhau sang Trung Quốc quỳ gối thần phục xin làm chư hầu. Mật Ước Thành Đô được ký kết ngày 4 tháng 9 năm 1990 giữa TBT Nguyễn
Văn Linh, Đỗ Mười với sự chứng kiến của Phạm văn Đồng với công hàm nhượng biển
1958 và TBT Giang Trạch Dân, TT Lý Bằng của Trung Quốc trong đó CSVN xin được
hưởng qui chế như một bang tự trị, 1 dân tộc trong các dân tộc ở Trung Quốc.
Nguyên bộ trưởng bộ ngại giao Nguyễn Cơ Thạch đã tuyên bố “Đây là thời kỳ mới chịu sự đô hộ của Trung Quốc”.
Ngày 25 tháng 12 năm 1999, Lê Khả Phiêu TBT đảng
CSVN và Trần Đức Lương, chủ tịch nước CHXHCNVN đi Bắc Kinh ký kết Hiệp ước phân
định biên giới. Hiệp ước này chính thức nhượng một phần lãnh thổ thuộc Ải Nam
Quan, một nửa thác Bản Giốc và nhiều dãy núi thuộc Hà Giang, Lạng Sơn. Ngày 30
tháng 12 năm 2000, nhà nước CSVN ký kết với Trung Quốc 2 hiệp ước phân định
vùng vịnh Bắc Việt và Hợp tác nghề đánh bắt cá. Với 2 hiệp ước này, Trung Quốc
chính thức khai thác tài nguyên hơn 11 ngàn cây số vuông trong vùng vịnh Bắc Việt.
Tháng 6 năm 2007, Trung Cộng phổ biến một bản đồ vẽ biển Đông của Việt Nam bao
gồm cả Hoàng Sa Trường Sa là lãnh hải mới của Trung Cộng. Nhận chỉ thị của Bắc
Kinh, tập đoàn Việt gian CS đã chọn ngày 1-10-2010 là ngày quốc khánh của Trung
Quốc làm ngày kỷ niệm ngàn năm Thăng Long và cờ Trung Quốc trước có 4 ngôi sao
tượng trưng cho các dân tộc Mông, Mãn, Tạng và Hồi nay được thêm 1 ngôi sao nữa
là 5 ngôi sao Mông, Mãn, Tạng, Hồi và Việt là dân tộc chư hầu của TQ được trình
chiếu trên màn hình đài truyền hình VN VTV4 khi đón Tập Cẩm Bình sang thăm chư
hầu VN… Cuối cùng, người thắng trong 2 cuộc chiến tranh này chính là Trung Cộng
và kẻ thua chính là Cộng Sản Việt Nam vì bộ mặt thật hại dân bán nước đã phơi
bày trước nhân dân và họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.
8.
HỘI CHỨNG VIỆT NAM CHO HOA KỲ
Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã để lại
cho họ một hội chứng “sự chia rẽ trầm trọng trong nội bộ nước Mỹ”, đồng thời uy
tín của Hoa Kỳ sút giảm trên chính trường quốc tế. Về phương diện chính trị,
Hoa Kỳ đã bị đánh bại bởi chính quốc hội Hoa Kỳ với đa số đảng viên đảng dân chủ
đã đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi quốc gia để bị Cộng sản lừa dối và
tùng phục quyền lực ngầm chi phối chính sách của Hoa Kỳ. Trong lịch sử Hoa Kỳ,
nền dân chủ chính trị đã xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh là biểu tượng của
dân chủ tự do cho toàn thế giới, thế nhưng chính nền dân chủ đó đã bị giới tài
phiệt lũng đoạn qua việc gây quỹ ứng cử nên các dân biểu nghị sĩ dễ bị lèo lái
vì quyền lợi của nhóm tài phiệt. Việc hoạch định chính sách thay vì toàn thể hội
đồng an ninh quốc gia quyết định thì hầu như giao phó cho viên cố vấn an ninh
toàn quyền quyết định nên đã bị nhóm quyền lực ngầm thao túng vì quyền lợi
riêng tư phe nhóm mà quên đi quyền lợi và cả danh dự của nước Mỹ. Chính trường
Hoa Kỳ trong thời chiến tranh Việt Nam bị nhóm quyền lực ngầm mua chuộc tác động
cả quốc hội Hoa Kỳ đã đưa nước Mỹ vào một sự kiện từng có trong lịch sử gọi là
“Hội chứng Việt Nam” nên Tổng thống Johnson đã phải cay đắng thốt lên sự thật
đau lòng:“Chính chúng ta đã đánh bại chúng ta!!!”.
Vào
thập niên năm mươi-sáu mươi, Hoa Kỳ tham dự chiến tranh Việt Nam để ngăn chặn
sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản. Bước sang thập niên bảy mươi, lợi dụng
sự mâu thuẫn giữa Liên Sô và Trung Quốc sau cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước hồi tháng 8 năm 1969, dẫn đến
việc Liên Xô đưa ra các kế hoạch chi tiết cho một cuộc tấn công hạt nhân vào
Trung Quốc. Mao Trạch Đông lo ngại và muốn tìm một sự hòa giải với Hoa Kỳ để
Trung Quốc rảnh tay mà đối phó với Liên Sô nên Hoa Kỳ lại dùng chiến tranh Việt
Nam để phân hoá hàng ngũ quốc tế Cộng sản. Để hoá giải ý đồ của Liên Sô muốn
Hoa Kỳ sa lầy trong cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ đã “Việt Nam hóa” chiến tranh
và tìm giải pháp rút quân trong danh dự. Hoa Kỳ đưa Trung Quốc vào thay Trung
Hoa Dân Quốc trong hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và bỏ ngỏ vùng biển Đông Nam
Á để Trung Quốc tách hẳn khỏi Liên Sô và trở thành đồng minh của Hoa Kỳ.
Sau
khi rút chân ra khỏi Việt Nam, chi phí dành cho chiến tranh được dồn sang chế
tạo vũ khí cạnh tranh quốc phòng với Liên Sô nên năm 1981, chỉ với 11 tỷ
dollars Hoa Kỳ đã chế tạo được phi thuyền con Thoi vượt xa Liên Sô trong lãnh
vực không gian. Cuối năm 1988, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa cộng sản ở các
nước Đông Âu đã dẫn tới những biến đổi lịch sử: Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc quay
trở lại theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Cộng Hòa Dân chủ Đức sát nhập vào Cộng
Hòa Liên bang Đức. Ngày 21-8 đảng Cộng sản Liên Sô bị đình chỉ hoạt động trong
toàn liên bang, chính phủ Sô viết bị giải thể. Mười một nước cộng hòa tuyên bố
độc lập, tách ra khỏi Liên bang Sô Viết. Một làn sóng chống đảng Cộng sản và
chống Xã hội chủ nghĩa dâng cao khắp mọi nơi. Ngày 21-12-1991 chính thức thành
lập các quốc gia độc lập SNG buộc Tổng thống Liên Sô M Gorbachev phải từ chức
và cùng ngày đó, ngày 25-12-1991 lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Cẩm Linh
(Kremlin) sau 74 năm bị hạ xuống. Đây là một thất bại nặng nề của chủ nghĩa
cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của chủ nghĩa
Cộng sản trên thực tế không còn tồn tại nữa. Chính Hoa Kỳ đã góp phần giật sập Liên Sô, thành trì của chủ nghĩa Cộng
Sản nên xét cho cùng, Hoa Kỳ thắng lợi nhất trong cuộc chiến này.
Lời thú nhận “Tất cả chúng ta đều đã bị lừa” của Jane Fonda, người đã ủng hộ
tích cực nhất cho phong trào phản chiến bị giựt dây bởi Cộng sản đã phải xin lỗi
quân đội và nhân dân Hoa Kỳ đã nói lên tất cả sự thật. Không chỉ một Jane Fonda
mà cả nước Mỹ và cả cán bộ đảng viên và nhân dân miền Bắc cũng bị lừa dối bởi bộ
mặt giả nhân giả nghĩa của chủ nghĩa Cộng Sản đã và đang bị nhân loại vất vào
giỏ rác của lịch sử. Cuối cùng, hơn ba
mươi năm sau, kẻ gọi là chiến thắng lại phải trải thảm đỏ mời người gọi là chiến
bại để mong được là đối tác hàng đầu cả về kinh tế lẫn quân sự đã trả lời cho
câu hỏi ai thắng ai trong cuộc chiến Việt Nam.
9. DÂN TỘC VIỆT NAM THẮNG
Trong suốt thời gian chiến tranh, quân đội
Việt Nam Cộng Hòa đã chiến thắng tất cả những trận đánh lịch sử. Cộng Sản Việt
Nam đã thất bại nặng nề trong tổng công kích tết Mậu Thân 1968, trên phương diện
chính trị Cộng Sản Việt Nam lại thất bại hơn vì không có một người dân nào ở miền
Nam tự do “Tổng Nổi Dậy” theo lời kêu gọi của cái gọi là mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam. Thế nhưng, sự kiện tết Mậu Thân được phe phản chiến trong đảng
Dân chủ và thế lực ngầm tài phiệt Do Thái được sự tiếp tay hỗ trợ của CS Liên
Sô đã huy động 500 ngàn đảng viên trên toàn thế giới với 2 tỷ đô la mỗi năm để
tài trợ, thổi phồng phong trào phản chiến lên cao độ khiến hành pháp Hoa Kỳ phải
bó tay không được hành động. Thống Tướng Westmoreland, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ
tại Việt Nam đã chua chát nhận định: “Chúng ta đã tham dự một cuộc chiến mà bị
trói một tay, một cuộc chiến tranh không được thắng. Chúng ta không thua tại Việt
Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết với quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn…”. Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã tuyên bố
trong buổi lễ Ngày Cựu Chiến binh năm 1982 như sau: “Chúng ta hãy tôn vinh những chiến sĩ Hoa Kỳ đã chiến đấu tại Việt Nam.
Họ là những chiến sĩ anh hùng vì họ đã chiến đấu trong hoàn cảnh không có quyền
thắng trận”. Hơn ba mươi năm sau khi kết thúc cuộc chiến, Henry
Kissinger, trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đã tự nhận
lỗi lầm: “Sự thảm bại tại VN vào ngày 30-4-1975 là do Hoa Kỳ gây nên, chứ không
phải VNCH”.
Sau ngày Cộng sản xâm chiếm miền Nam, hàng
triệu người phải bỏ quê hương ra đi tìm tự do nhưng sau gần 37 năm, ngọn cờ
vàng ba sọc đỏ vẫn tung bay trên khắp thế giới như biểu tượng cho dân chủ tự
do. Cuộc chiến ngày nay không còn là cuộc chiến của miền Nam tự do nữa mà đã trở
thành cuộc chiến của toàn dân tộc chống tập đoàn Việt gian Cộng Sản độc tài, bất
nhân hại dân bán nước. Một cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ sẽ chuyển đổi lịch sử trong nay mai và mà thắng lợi cuối cùng
chính là của dân tộc Việt Nam”. (Trích trong Lược Sử Việt Nam của Phạm Trần
Anh).
Thật vậy, tiết lộ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nói lên sự thật về
cuộc chiến tranh Việt Nam. Bây giờ ngay cả những
người viết sách viết báo trước đây đã lên tiếng gọi là tranh đấu cho rằng Mặt
Trận Giải Phóng là do nhân dân miền Nam lập ra cũng như cuộc chiến giữa một người
khổng lồ Hoa Kỳ và các đồng minh ỷ sức mạnh hiếp đáp một em nhỏ vô tội đã hoàn
toàn sụp đổ… Thực tế đã chứng minh rằng, cuộc chiến VN là sự đối đầu quyết liệt
giữa 2 hệ thống, một bên là thế giới tự do và bên kia là khối CS bao gồm Liên
Sô, Trung Quốc, Triều Tiên và VN dân chủ Cộng Hòa. Điều này không phải do Trung Quốc bịa đặt ra mà chính Võ Nguyên Giáp
cũng đã thừa nhận trong các quyển sách của ông ta. Thật vậy, ngay chính trong
những quyển sách do chính họ Võ viết, chúng ta cũng thấy rõ một số vấn đề. Trong
cuốn Đường tới Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp viết: “Trong một buổi làm việc ở Moscou
với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn
(sư đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc Việt
Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí. Tỉnh Quảng Tây sẽ
là hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân dân lần
lượt được đưa sang Tầu để thụ huấn và nhận vũ khí. Những đơn vị sang Trung Quốc,
ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật công
kiên, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có thuốc nổ, ta
chưa hề sử dụng kỹ thuật này”. Võ Nguyên Giáp còn xác nhận chính Hồ Chí
Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố vấn. Theo lời yêu cầu
đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang Việt Nam, giúp quân Cộng
Sản Việt Nam ngày 17-1-1950 gồm Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng Sản
Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn, Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về Quân sự,
Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu, Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần.
Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt Nam tổ chức 3 cơ chế căn bản
trong quân đội là Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục chánh trị và Tổng cục hậu cần. Như vậy, ngay cả trong công việc tổ chức
quân đội của Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn do Trung Quốc tổ chức và điều khiển và
“Đại Tướng” Võ Nguyên Giáp cũng chỉ là người thừa hành.
Thật
vậy, trong chiến tranh Việt-Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh
lớn không phải là Giáp mà là các tướng lãnh Trung Cộng như Trần Canh trong đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc
Thanh, Lã Quí Ba. Ngay từ chiến dịch bên giới năm 1950 nhằm mục đích đánh đuổi
quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt Nam-Trung Quốc để cho việc tiếp vận
từ Trung Cộng cho quân đội của Cộng Sản Việt Nam được dễ dàng. Sau khi Lã Quý
Ba sang VN làm Tổng cố vấn ngày 17-1-1950 thì tướng Trần Canh của Trung quốc
sang Việt Nam ngày 22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh nhân
dân của Mao vào chiến tranh Việt Nam. Kế
hoạch tiến công của Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế bằng
kế hoạch tác chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch của
Giáp, Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa
Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó phục
kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ
Chí Minh chấp thuận kế hoạch này. Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải
bỏ hết các tỉnh biên giới. Chiến thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam
là của cố vấn Trung Quốc Trần Canh.
Từ
năm 1951, nhóm cố vấn chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ
và chánh sách liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài phát thanh
cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số. Sau các tổn thất ở đồng bằng
sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố vấn của các cố vấn Trung Quốc, mở
chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba
trách nhiệm hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về TQ chữa bệnh. Hồ Chí
Minh chấp thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai (China and
the Vietnam wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật sang BắcKinh để thảo
luận về chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược thắng quân Pháp. Ngày 14-10 Việt
Minh tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận. Ngày 16-10
Vy Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến dịch. Sau khi mất
Nghĩa Lộ, quân Pháp rút chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm
lĩnh một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở
Lào.
Tháng
5-1953, tướng Henri Navarre tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương lập kế hoạch Kiểm
soát vùng đồng bằng sông Hồng, Bình định các khu do Cộng Sản kiểm soát ở miền
Trung và miền Nam và mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của Việt Minh tại
miền Bắc. Để thực hiện kế hoạch, Navarre cho thành lập các binh đoàn lưu động.
Việt Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung quân tại vùng Tây Bắc và Lai Châu,
nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo quân tấn công quân Pháp ở đồng bằng
sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan trọng của chiến dịch ở Lào. Bắc
Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc Kinh nhấn mạnh Việt Minh cần giữ
nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu
thực thi chiến thuật này, Việt Minh Cộng Sản có thể chuẩn bị lực lượng cho công
cuộc đánh chiếm đồng bằng sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương.
Tháng 9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để
theo kế hoạch của các cố vấn Tầu. Ngày 27 tháng 10 năm 1953, Vy Quốc Thanh trao
cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình báo Trung Cộng đã thu đoạt
được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo của Cộng sản Việt Nam nói đề nghị của Trung
Quốc là đúng.
Khi Navarre đưa quân đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm
quan trọng của vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch
bao vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến dịch
Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng quốc tế.
Ngày 6-12-1953,
Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ.
Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra. Chính các cố vấn
Trung Cộng đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc và Điện
Biên Phủ vì Mao Trạch Đông đã chỉ thị rõ ràng là “Cố vấn thì là cố vấn, nhưng trên
thực tế chính là tham mưu, làm tham mưu tốt cho các đồng chí lãnh đạo của người
ta. Tham mưu chính là đề xuất chủ trương, nghĩ biện pháp, hiệp tác giúp đỡ lãnh
đạo…”. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286 tấn
tiếp liệu gồm võ khí, lương thực … Võ Nguyên Giáp là Tổng Chi Huy chiến dịch
trên danh nghĩa, Vy Quốc Thanh là Tổng Cố Vấn quân sự. Cố vấn quân sự các cấp của
Hồng quân TQ có mặt tại trận địa dốc toàn lực hợp tác giúp đỡ. Cố vấn TC có mặt
ở mọi đơn vị đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi
để tránh bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Các trung đoàn pháo cao xạ của Hồng
quân Trung Cộng cùng với pháo binh của Việt Minh, được các cố vấn Trung Cộng điều
khiển đã khống chế toàn bộ chiến trường khiến quân Pháp co cụm lại để phòng thủ
đã là một bất ngờ lớn khiến quân đội Pháp thất trận Điện Biên Phủ. Một tướng
lãnh Trung Cộng Hà Cẩn đã viết trong quyển “Mao Chủ Tịch” của tôi đã viết: “Bằng
sự sáng tạo của Mao chủ tịch trong việc đưa tới Việt Nam các đồng chí cố vấn mà
chiến dịch đã kết thúc thắng lợi với vai trò chính yếu thuộc về thượng tướng Vi
Quốc Thanh”. Như vậy, cái gọi là chiến thắng Điện Biên Phủ, khách quan
mà nói là do sự đóng góp không nhỏ của Trung Cộng mà “Danh Tướng Võ Nguyên
Giáp, Người Hùng của chiến trận Điện Biên” chỉ là danh tướng trên danh nghĩa mà
thôi.
Trên thực tế,
vinh quang chiến thắng Điện Biên Phủ là của toàn dân Việt Nam yêu nước, quyết
hy sinh mạng sống để giành lại độc lập dân tộc chứ không phải của cá nhân Võ
Nguyên Giáp, lại càng không phải của Hồng quân Trung Quốc. Hồng quân TQ
cũng như cá nhân Võ Nguyên Giáp cùng toàn thể Trung ương đảng CS chiến đấu cho
lý tưởng CS, trong khi xương máu của nhân dân đã bị lợi dụng dưới danh nghĩa
kháng chiến giành độc lập dân tộc mà thực tế là để CS xâm lược bành trướng chiếm
toàn bộ Việt Miên Lào, mở đường xuống Đông Nam Á mà thôi. Chúng ta không ngạc
nhiên gì trong điếu văn của TBT đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã không vinh danh
Võ Nguyên Giáp như một anh hùng dân tộc mà chỉ xem “Đại Tướng võ Nguyên Giáp có những
cống hiến xuất sắc, mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc nhưng chiến công đó
nằm trong sự lãnh đạo của Trung Ương đảng và Bác Hồ. Đại Tướng chính là một trong
những người tiêu biểu trong một tập thể cán bộ lãnh đạo tài năng, dày dạn…”.
Người
Pháp vẫn truyền tụng câu truyện về một viên Đại Tá huyền thoại của đơn vị Lê
Dương là sau khi chiến thắng, Võ Nguyên Giáp đã đến thăm tù binh Pháp trong đó
có Đại Tá huyền thoại Pièrre Charton của đội quân Lê Dương với sự hả hê của kẻ
chiến thắng. Võ Nguyên Giáp nói: “Tôi đã
đánh bại ông, thưa Đại tá!". Pièrre Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại
chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương
tiện khủng bố. Ông đã thắng nhờ các yếu
tố khác không phải tài năng quân sự”. (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968).
Nếu chỉ xét tài
năng của họ Võ trong cuộc chiến với thực dân Pháp không đủ, chúng ta phải xét
tài năng của ông ta trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam mới thấy rõ Võ Nguyên
Giáp có phải là một danh tướng thực sự hay không? Trong cuộc chiến
với quân lực Việt Nam Cộng Hòa, “Danh Tướng” họ Võ đã chứng tỏ tài năng thực sự
khi tung ra 3 Sư đoàn bộ binh và trọng pháo bao vây toan lấy chiến thuật “biển
người” để tiêu diệt 6.000 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ cùng với 1 tiểu đoàn Biệt Động
Quân QL/VNCH trên đồi Khe Sanh, Quảng Trị năm 1968. Quân CS Bắc Việt đã không
những không chiếm được mà còn trở thành con mồi cho pháo đài bay B52 trải thảm
tiêu diệt từ 10 đến 15, 000 bộ đội. Đó
là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng
hàng ngàn thương binh”. (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr. 130).
Năm
1972, đích thân Võ Nguyên Giáp chỉ huy chiến dịch Trị-Thiên, Tây Nguyên và Đông
Nam Bộ mà quân dân miền Nam gọi là “Mùa hè đỏ lửa”. Trên một địa hình nhỏ hẹp
dài, bên núi, bên biển của vùng Chiến thuật 1, họ Võ tung ra cùng một lúc 6 sư
đoàn CS Bắc Việt tiến công các cứ điểm quân sự của quân lực VNCH với chủ quan sẽ
chiếm được toàn bộ vùng I chiến thuật. Thế nhưng, trong suốt chiến dịch kéo dài
9 tháng, quân CS chỉ chiếm được một nửa phía Bắc của tỉnh Quảng Trị nhưng cuối
cùng quân lực VNCH cũng tái chiếm được cổ thành Quảng Trị. Đây là một thắng lợi
vang dội của quân dân miền Nam khiến quân CS thiệt hại nặng nề. Theo báo cáo nội
bộ của CS thì trong suốt 9 tháng chiến dịch, sư đoàn 308 thương vong 70% quân số,
Sư đoàn 312 đã bổ sung quân 13 đợt, mỗi đợt 500 người, sư đoàn 320 thương vong
80% quân số. Các sư đoàn còn lại tham chiến đều mất ít nhất nửa số quân. Tổng
thương vong lên tới hơn 30 ngàn người, chết hơn 15 ngàn quân. Chiến dịch cũng
khiến cộng sản tiêu tốn hơn 300.000 viên đạn pháo gần 4/5 lượng đạn pháo trong
kho, dẫn đến tình trạng thiếu đạn, chỉ còn 100.000 viên cuối năm 1974. mà không
có được một thành quả cụ thể chiến thắng nào. Trong cuốn sách “Liên Xô-Trung Quốc
và Việt Nam, vấn đề chưa được biết” của tác giả người Nga, Ruslan Kobachenko,
nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu lịch sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học
Minsk-Nga, ông cũng là đảng viên đảng cộng sản Liên Xô được nhà xuất bản Lịch sử
của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995 viết: “Về cơ bản chiến dịch tổng tấn công mùa hè năm
1972 của quân đội ông Giáp thất bại hoàn toàn mà không đem lại lợi ích nào cụ
thể. Cái được lớn nhất chỉ là kinh nghiệm cho cuộc chiến sau này. Nhưng có lẽ
ông Giáp là người phải chịu trách nhiệm cao nhất cho cái chết của hơn 15 nghìn
người lính...”.
Thất
bại của viên “Danh Tướng” này được ghi rõ trong tài liệu tổng kết chiến dịch
mùa hè 1972 của bộ tổng tham mưu QĐND mang bí số KHTM/1972- BQP cho biết: “Chúng
ta đã thiệt hại nặng nề nhất kể từ sau tổng tiến công Mậu thân năm 1968 mà cần
phải một thời gian chừng 4 năm nữa mới có thể khôi phục lại...”. Sau này, nhân sinh nhật thứ 84, họ Võ đã
không dám nhận lãnh trách nhiệm phần nào mà còn thanh minh đổ tất cả sự việc
cho Lê Duẫn như sau: “Năm 1972, còn gọi
là chiến dịch đỏ lửa tại thành cổ Quảng Trị. Khi đó, tôi vẫn lấy phương châm tiến
công như mọi khi: 'Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy yếu tố bất ngờ để
tạo thế chủ động, khiến địch trở tay không kịp'. Cứ dùng chiến tranh du kích
tiêu diệt hàng ngày, hàng giờ, hết đêm này sang đêm khác để địch suy tổn lực lượng
rồi đánh cấp tập một trận giải phóng dứt điểm thành cổ như mọi trận khác vẫn diễn
ra từ trước đến nay. Không ngờ quan điểm của tôi bị Ba Duẩn (Lê Duẩn) bác bỏ
không thương tiếc. Giữa hội nghị, anh Ba đập tay xuống bàn, quát: "Thế là
giảm sút ý chí chiến đấu. Phải cho địch biết thế nào là quả đấm chủ lực của
quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vì vậy tôi yêu cầu, cứ đánh vỗ mặt thành cổ
Quảng Trị cho tôi. Sống chết, đúng sai tôi chịu trách nhiệm." Kết quả
trong suốt 60 ngày đêm của chiến dịch thành cổ, cứ 5 giờ 30 phút chiều, khi trời
bắt đầu chập choạng tối, một đại đội ta ở bên này bờ sông Thạch Hãn, lặng lẽ
bơi sang để đánh vỗ mặt thành, 8 giờ 30 phút bơi trở về chỉ còn được mươi, mười
lăm người. Lần nhiều nhất là 35 đồng chí (cả lành lặn, cả bị thương). Lần ít chỉ
còn 5, 7 đồng chí thương tích đầy người, thậm chí có lần cả một khúc sông,
không một bóng người, chỉ có tiếng gió hú ghê rợn như những âm hồn vọng vang khắp
đáy sông. Như vậy, trung bình mỗi ngày
ta tiêu hao một đại đội chủ lực (khoảng 135 người) và 60 ngày đêm tấn công
thành cổ ta mất gần một vạn người, biến thành cổ Quảng Trị thành nấm mồ chôn
thanh niên, sinh viên, trí thức Việt Nam.”.
Tướng
William Childs Westmoreland - Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam
Việt Nam đã nói về tướng Võ Nguyên Giáp của quân đội cộng sản như sau: “Of
course, he was a formidable adversary... By his own admission, by early 1969, I
think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a
disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make
a military genius. An American commander losing men like that would hardly have
lasted more than a few weeks”. “Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ (kẻ thù) ghê
gớm... Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã
mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ (kẻ
thù) ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự. Với một cấp chỉ
huy Hoa Kỳ, sự thiệt hại nhân mạng nhiều như thế sẽ mất chức ngay…”. Chúng
ta cũng phải nhận thấy một điều là với Westmoreland, một chiến thắng quân sự dựa
trên chiến thuật đẫm máu, coi thường sinh mạng binh sĩ chỉ có thể tạo nên một kẻ
thù nguy hiểm chứ không tạo nên một thiên tài quân sự. Điều này cho thấy cộng sản
Việt Nam thật sự tàn độc và coi thường sinh mạng binh sĩ. Đây không chỉ là điều
ám chỉ mình tướng Giáp công thành khiến “vạn cốt khô” mà nó còn ám chỉ bản chất
không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn nào của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Mục đích của cộng sản là lợi dụng xương máu
của nhân dân để đem lại lợi ích cho đảng mà không có chút tình người, tình dân
tộc nào. Tướng Westmoreland cũng khá sâu sắc khi dùng từ “formidable” vì nó
có nghĩa như là sự khủng bố mà chính cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân 2 miền.
Trong bài bình luận đăng trên The
Washington Times mới đây, Giáo sư Luật Robert F. Turner có hai bằng Tiến sĩ từ
Đại học Luật Virginia, giảng dạy về Chiến tranh Việt Nam. Ông là tác giả nhiều
quyển sách về chiến tranh Việt Nam và chủ nghĩa cộng sản viết rằng Tướng Giáp
đánh bại quân đội Pháp năm 1954 và có công trong chiến thắng năm 1975, nhưng
xuyên suốt cuộc chiến, lực lượng của
Tướng Giáp chưa từng thắng một trận đánh lớn nào trước quân đội Hoa Kỳ. Giáo sư Turner nói Mỹ bị thất bại không
phải trước lực lượng cộng sản Bắc Việt của Tướng Giáp mà trước Quốc hội Hoa Kỳ thời
bấy giờ bị ảnh hưởng bởi những thông tin sai lạc. Theo Giáo sư Turner, công
bằng mà nói, Tướng Giáp đáng được ghi công trong cuộc chiến chính trị đã dẫn
tới phong trào phản chiến rầm rộ tại Mỹ thời bấy giờ, khiến Quốc hội Hoa Kỳ
ngưng viện trợ cho các hoạt động tác chiến của lực lượng Mỹ tại Việt Nam. Ông
cũng nhắc lại các tổn thất nặng nề của lực lượng Bắc Việt trong trận đánh Tết
Mậu Thân, với hàng loạt các cuộc tấn công vào hơn 100 tỉnh-thành khắp miền Nam
vào cuối tháng giêng năm 1968. Ông
Turner nói sau trận đánh, tổn thất của quân đội cộng sản so với quân đội miền
Nam Việt Nam và lực lượng Mỹ đồng minh cao hơn gấp chục lần. Giáo sư
Turner nói khi chúng ta hồi tưởng nhân sự ra đi của Tướng Giáp, chúng ta cũng
nên nhớ lại các hậu quả từ quyết định của Quốc hội Mỹ lúc đó, bỏ lại sau lưng
các cam kết lịch sử và bật đèn xanh cho phe cộng sản lấn chiếm sang miền Nam
Việt Nam, Lào, và Campuchia. Trong số các hậu quả này, vẫn theo Giáo sư Turner,
phải kể đến số người thiệt mạng ở khu vực Đông Dương trong 3 năm ‘giải phóng’
cao hơn số người chết trong 14 năm chiến tranh trước đó.
CON NGƯỜI THẬT CỦA “ĐẠI TƯỚNG” VÕ NGUYÊN
GIÁP…
DANH TƯỚNG HAY
HÈN TƯỚNG!?
Người
dân, người lính quý mến kính trọng “Người anh cả của quân đội nhân dân”, “người
hùng của chiến thắng Điện Biên”, “Danh Tướng của thời đại qua” qua tấm lòng yêu
nước của họ, nhất là được tuyên truyền nhồi nhét về nào là giải phóng dân tộc,
nào là chấm dứt 100 năm đô hộ của thực dân Pháp. Làm sao mà không xem “Đại Tướng”
là anh hùng, là danh tướng của thời đại khi có tới 120 quyển sách của các học
giả, giáo sư, tướng lãnh người ngoại quốc hết lời ca ngợi?
Người
ta quên một điều căn bản là hầu hết những người viết sách đó là những đảng viên
CS hoặc có cảm tình với phong trào CS, với các nước nhược tiểu thuộc thế giới
thứ ba và quan trọng hơn nữa là chủ trương của bộ máy tuyên truyền của quốc tế
CS cung cấp tài liệu, mua chuộc tình cảm, tiền bạc để viết một quyển sách tuyên
truyền cho các nước thế giới thứ ba chống lại “Đế quốc Mỹ xâm lược”. Người viết
từ một kẻ tầm thường trở nên nổi tiếng nhờ cái loa tuyên truyền của CS rồi lại
có cả chục ngàn, cả trăm ngàn dollars khiến viết sách về các “nhân vật nổi tiếng”
trở thành cái mốt thời thượng ai mà không thích.
Bài
học thực tế cho chúng ta thấy rằng, sau thất bại thảm hại vào dịp tết Mậu Thân,
đệ tam quốc tế thấy rằng chỉ có thể thắng Hoa Kỳ được ngay tại chính quốc hội Mỹ, trong lòng người
dân nước Mỹ. Thế là nhân việc đảng Dân chủ lấy chiêu bài phản chiến để chống đảng
Cộng Hòa để giành chiếc ghế TT Hoa Kỳ, bộ máy tuyên truyền của quốc tế CS đã huy động 500 ngàn đảng viên
CS trên khắp thế giới vận động giới trí thức khuynh tả xuống đường biểu tình rầm
rộ chống chiến tranh hàng tháng trời, biểu tình trên khắp thế giới. Liên Sô đã
chi ra 2 tỷ dollars 1 năm cho công tác tuyên truyền này và cuối cùng người Mỹ
phải bỏ cuộc vì họ thua ở ngay trong lòng nước Mỹ bởi chính quốc hội Mỹ. Cô diễn
viên tài tử Jane Fonda, người từng đội mũ bộ đội CS. Leo lên nòng khẩu cao sạ tại
Việt Nam để tuyên bố chống lại tổ quốc Hoa Kỳ của cô, bây giờ đã sáng mắt ra để
xin lỗi cựu chiến binh Mỹ, xin lỗi nước Mỹ vì “Tất cả chúng ta đã bị lừa…” thì
không còn kịp nữa…
Đằng sau cái gọi
là “Danh Tướng” là con người thật Võ Nguyên Giáp với những tầm thường đến độ
khinh bỉ. Thật vậy, làm sao mà những người lính dưới
quyền có thể tin yêu một cấp chỉ huy tầm thường hèn nhát đến độ không bao giờ
có mặt tại chiến trường mà luôn luôn nằm trong hầm chỉ huy, núp dưới giao thông
hào bộ tư lệnh cách chiến trường hàng chục cây số. Vị tướng anh hùng ấy cũng
chưa từng một lần đi B nghĩa là vào chiến trường miền Nam. Chúng ta hãy ghe cựu
Đại Tá Quân Đội Nhân dân Bùi Tín nói về “Danh Tướng” họ Võ: “Ông Giáp thường không có thói quen ra thị
sát Mặt trận. Ở trận chiến Điện Biên Phủ, người ta chỉ thấy vài bức hình chụp
ông với Hồ Chí Minh, tại Bộ Chỉ huy chiến dịch - bao giờ cũng trải vài tấm bản đồ,
tay thì chỉ chõ - đóng kịch - như thể đánh nhau chỉ cần chỉ chõ bằng bản đồ -
và ông trú ẩn an toàn tại Bộ chỉ huy ĐBP tại hang Thẩm Púa, thuộc Mường Phăng.
Hang Thẩm Púa cách Điện Biên Phủ bao nhiêu cây số, thưa đại tướng? Sau khi chiến
thắng Điện Biên Phủ, ông đi thị sát mặt trận, quần áo chỉnh tề, chân đi giầy ủng
cao đến đầu gối!”. Như vậy là quá đủ để
nói về một vị tướng “tài” như ông Giáp thời chống Pháp...
Sau chiến thắng
lớn như trên, các nhà bình luận quân sự phương Tây thường chỉ ra phía kháng chiến
đã chịu những tổn thất khủng khiếp, gấp 3 hay 4 lần đối phương. Cái giá phải trả
cho chiến thắng là quá lớn, lớn đến khủng khiếp, toàn là trai tráng thanh niên
tuấn tú, có lý tưởng, chất lượng cao của dân tộc. Đây là sự thật. Hồi tháng
4-1996, trong cuộc hội thảo ở trụ sở Quốc Hội Hoa kỳ, tướng
Westmoreland nói với tôi rằng: «Tôi công nhận tài năng của tướng Giáp, phải có
tài mới ở lâu đến hơn 30 năm chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất;
nhưng phải nói thật là nếu như tướng Giáp là một viên tướng Hoa kỳ thì ông đã bị
mất chức từ lâu rồi, vì Quốc hội chúng tôi, xã hội chúng tôi không thể chấp nhận
những tổn thất sinh mạng của quân đội mình cao đến vậy».
Tôi nghĩ nền
độc lập của đất nước, quyền sống tự do của nhân dân là vô giá, dù cho phải trả
giá cao, nhưng lãnh đạo đảng Cộng sản đã không quan tâm thật sự đến tự do của
nhân dân, chỉ quan tâm trước hết đến quyền lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của đảng,
do đó mà vô vàn hy sinh của các liệt sỹ cuối cùng đã trở nên phũ phàng, mỉa mai,
không được đáp đền một cách xứng đáng. Đây
là điểm tiêu cực nhất của tướng Giáp, là tỳ vết sâu đậm nhất của một danh tướng,
từng được coi là Người Anh Cả của Quân đội Nhân dân. Ông mang danh là một viên
tướng «Sát Quân», sát quân một
cách lạnh lùng. Tôi đã gửi 2 lá
thư cho ông (năm 1992 và 1996), nhắc ông rằng quân hàm đại tướng 4 sao của ông
được mạ bằng xương máu của hàng vạn vạn chiến binh, rằng “nhất tướng công thành vạn cốt khô”, mong ông hãy tham gia, ủng hộ phong trào đổi mới
theo hướng dân chủ hóa thật sự đất nước; rằng ông chỉ cần ghé thăm anh Hoàng
Minh Chính đang bị chính quyền đối xử rất tồi tệ, hoặc nhắn anh Đại tá Phạm Quế
Dương mới ra khỏi nhà giam đến hỏi chuyện, cả 2 đều là sỹ quan từng dưới quyền
trực tiếp của ông, ông vẫn làm ngơ, không động lòng. Đây là điểm yếu về ý chí, công tâm, nhân cách.
Nhiều người nhắc
đến lá thư tháng 1-2004 của tướng Giáp gửi lãnh đạo đảng CS yêu cầu giải quyết
«vụ án siêu nghiêm trọng» liên quan đến Tổng cục II, làm rõ vụ Năm Châu, Sáu Sứ
và vụ T4, và sau này là 3 lá thư của ông hồi 2008-2009 về yêu cầu đình chỉ việc
khai thác bauxite trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là những việc làm có
ý nghĩa tích cực, nhưng lá thư thứ nhất quá chậm trễ, vì các vụ Năm Châu, Sáu Sứ
và vụ T4 đều xảy ra từ hồi 1991 - 1993 cũng như vụ dựng lên Tổng cục II từ Cục
2 Quân báo đến lúc đó cũng đã được mười năm. Ông Giáp phải chờ đến năm 2004 -
năm kỷ niệm nửa thế kỷ Chiến thắng Điện Biên Phủ - mới dám lên tiếng. Mà nội
dung lên tiếng xem kỹ ra là nặng về thanh minh cho riêng cá nhân mình, như ông
bị Năm Châu, Sáu Sứ dựng lên tài liệu để vu cáo là ông có âm mưu đảo chính, hay
vụ T4 là do Tổng cục II bịa ra tài liệu vu cáo ông và nhiều nhân vật khác có
quan hệ với CIA của Hoa kỳ. Nói
tóm lại ông chỉ trước hết nhằm bảo vệ thanh danh của cá nhân mình, cố chăm nom
cho cái bộ mã của người hùng Điện Biên không bị hoen ố, cho đến khi hơn trăm tuổi.
Thái độ của ông đối với vụ khai thác bauxite cũng có phần yếu ớt, buông xuôi,
so với những lá thư mạnh mẽ, lặp đi lặp lại của các tướng Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn
Trọng Vĩnh và một số sỹ quan cấp cao khác.
Dũng khí là đức tính hàng đầu của một danh tướng, nên vào năm 1984, khi ông Lê Duẩn đến nói chuyện rất
hẹp với cán bộ lãnh đạo báo Nhân Dân, ông kể rằng hồi 1968, bộ trưởng quốc phòng “nhát như thỏ đế”, tránh mặt ra nước ngoài. Sự thật kế hoạch quân sự Mậu Thân 1968 là do các
ông Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đề xuất, khởi thảo và chỉ đạo thực
hiện. Khi chiến sự bùng nổ Tết Mậu Thân, ông Giáp đang dưỡng bệnh 2 tháng ở
Hungary sau khi mổ cắt túi mật ở đó. Thật ra ông không tán thành tham vọng tổng
tiến công và nổi dậy, ông chỉ có ý thực hiện tập kích chiến lược, đánh rồi rút
bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Ý ông đúng, nhưng không cản nổi.
Ở Bộ Quốc phòng và Tổng tham mưu, các sỹ quan đều biết
rằng suốt trong 30 năm, tướng Giáp rất ít khi ra mặt trận. Ngay ở Điện
Biên Phủ ông gần như chỉ ở trong hang đá Mường Phăng, ngoài tầm pháo địch, suốt
hơn 4 tháng trời, không ra gần hay sát nơi chiến trận. Sau khi chiến dịch
toàn thắng ông mới ra duyệt binh tại chiến trường đã im tiếng súng và tìm hiểu
những di tích của các trận đánh. Trước đó, các chiến dịch lớn Trung Du, Hòa
Bình, Thượng Lào … ông cũng ở trên Việt Bắc, chỉ huy từ rất xa. Từ khi bắt đầu
cho đến khi kết thúc chiến tranh ở miền Nam (1959 - 1975), ông không hề đặt chân
lên chiến trường miền Nam (trừ 2 ngày tháp tùng ông Fidel Castro trên một đoạn
ngắn thăm đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Cam Lộ - Quảng Trị, khi sắp kết thúc
chíến tranh.). Trong khi đó các tướng Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng
Tấn, Trần Độ, Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê … đều ở chiến trường
miền Nam vài năm.
Một nhược điểm của tướng Giáp là văn phong, khẩu khí
của ông, nếu không thể nói là yếu kém thì có thể nói là không có gì nổi bật. Ông mất đi, để lại hàng chục đầu sách, hàng trăm luận
văn, bản báo cáo, hàng chục hồi ký (phần lớn do nhà văn quân đội Hữu Mai ghi lại),
rất nhiều bài trả lời phỏng vấn trong nước và nước ngoài. Có cuốn sách nào hay,
những ý tưởng quân sự nào đặc sắc của cá nhân ông, để lại cho hậu thế hay
không? Điều này rất khó nói. Tôi từng dự nhiều buổi nói chuyện của ông tại Bộ
Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, tại Học viện Quân sự cấp cao, ở trường Sỹ quan Lục
quân, ở nhiều Quân khu, có thể nói ông không có năng khiếu truyền đạt, thông
tin một cách bổ ích, hấp dẫn, rất thiếu những hình ảnh, dẫn chứng đặc sắc thú vị.
Ông không có tài hùng biện, lôi cuốn của tướng Nguyễn Chí Thanh, không có tài kể
chuyện thú vị của tướng Trần Độ, không có sự sống động dày dạn của lão tướng
Lê Trọng Tấn, không có sự táo tợn bộc trực của tướng Phùng Thế Tài, cũng không
có cái giọng bình dân lính tráng bỗ bã của tướng Đinh Đức Thiện.
Vốn là giáo sư sử
học trường tư thục Thăng Long, tướng Giáp say mê nghiên cứu lịch sử, hiểu rõ
thiên tài quân sự của Napoléon. Ông thông minh, đôi mắt sáng, có trí nhớ tốt.
Nhưng cách trình bày, khoa sư phạm của ông thường lại sáo mòn, đầy những quy luật,
nguyên tắc nhạt nhẽo, khô cứng, lặp đi lặp lại đến phát chán cho người nghe.
Bao giờ cũng là do sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, có đường lối chính trị và đường
lối quân sự đúng đắn; có Quân đội Nhân dân, quân đội của nhân dân, từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được nhân dân bao bọc, che chở, nuôi dưỡng, gồm
3 thứ quân: chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, phối hợp chặt chẽ 3
vùng: rừng núi, trung du và đồng bằng; vùng tự do, vùng tranh chấp và vùng tạm
chiếm; luôn giữ quyền chủ động cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và chiến
đấu, kết hợp chặt chẽ tiền tuyến với hậu phương… quanh quẩn chỉ có thế. “Bi kịch lớn nhất của tướng Giáp khá nhiều
người nhận thấy đúng là: một danh tướng, có kiến thức, thông minh nhưng lại
không đủ thông minh và dũng khí để sớm nhận ra và từ bỏ một lý thuyết sai lầm tệ
hại, chỉ đem lại tàn phá và tổn thất cho nhân dân, đến nay vẫn chưa có tự do và
hạnh phúc khi ông nhắm mắt”.
Thế nhưng, vị tướng
anh hùng ấy là một con người đầy tham vọng, nham hiểm gian ác mà lại hèn nhát
vô cùng.
Những tướng thuộc cấp cùng có mặt trên chiến trường điện Biên năm nào bị đảng
thanh toán không thương tiếc mà người anh cả ngậm miệng đã không dám lên tiếng
bênh vực mà còn không dám thở dài nên chính vì kính mến quá mức cũng đã phải thốt
lên là “Anh Văn (bí danh của Giáp) quá hèn!!!”. Sau chiến thắng Điện
Biên, gần 200 ngàn người bị đem ra đấu tố đến chết trong đó có không ít những
“Anh hùng Điện Biên” bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông nhưng Giáp không
những nín thinh mà còn đứng xin lỗi toàn dân để chạy tội cho Bác và Đảng. Luật
sư Nguyễn Mạnh Tường đã dám phê bình chính sách cải cách ruộng đất của Bác và Đảng
nên bị trù dập đày đọa rồi năm 1955, vụ Nhân Văn Giai Phẩm rất nhiều chiến sĩ
quân đội nhân dân như Trần Dần, Phùng Quán, Quang Dũng, Hoàng Cầm bị đấu tố tù
đầy thì Giáp vẫn im lặng. Vụ án xét lại chống Đảng do Lê Duẫn, Lê Đức Thọ chủ
mưu dàn dựng để thanh toán các tướng tá đàn em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim
Giang, Nguyễn văn Vịnh, Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn Doãn bị hãm hại thì
Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Khi các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng văn Thái thong
gia của Giáp bị thanh toán thì họ Võ vẫn cúi đầu im lặng khiến đa số tướng ta uất
ức gọi anh cả quân đội nhân dân là “Hèn
Tướng”. Vấn đề đặt ra là tại sai “Danh Tướng” lại quá hèn để trở thành “Hèn
Tướng”? Phải chăng vì danh vọng nên quá sợ chết nên “thủ khẩu như bình” hay vì
đảng nắm được cái tẩy lý lịch “Con nuôi của trùm mật thám Pháp” đành phải cúi đầu
tuân phục đi cầm quần chị em nên dân gian mỉa mai cay đắng “Ngày xưa đại tướng cầm quân,
ngày nay đại tướng cầm quần chị em” thì còn gì là một con người có danh dự,
có liêm sỉ tối thiểu để sống trên đời.
Nhân cách của Võ
Nguyên Giáp còn thể hiện trong việc tự nhận mình là người sáng tạo ra hình thái
chiến tranh nhân dân một cách vô liêm sỉ. “Danh Tướng” họ Võ đậu cử nhân
luật, là trí thức của xã hội chủ nghĩa thế mà không có liêm sỉ của một trí thức
chân chính. Thật vậy, sau chiến tranh, Võ Nguyên Giáp đã viết sách về “chiến
tranh nhân dân”, “quân đội nhân dân” được dịch ra tiếng Pháp “Guerre du peuple,
l'Armée du peuple ) “Điện Biên Phủ, điểm
hẹn lịch sử” (The Chinese support for the North Vietnam during the Vietnam War;
The Decisive Edge by Bob Seals), họ Võ đã lờ đi, không nhắc nhở gì tới sự đóng góp
của các cố vấn Trung Quốc và Hồng quân TQ. Mặt khác, họ Võ đã tự cho rằng mình
và đảng Cộng Sản Việt Nam là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật
này. Đây là một điều không thể chấp nhận được. Sự thật hình thái chiến tranh
nhân dân là một chiến lược chiến thuật của quân dân Việt đã áp dụng để chống lại
quân của đế quốc Tần ngay từ thế kỷ thứ 3 TDL. Thế mà, họ Võ đã tự cho
là của mình và của đảng CSVN sáng tạo ra không phải vì không biết lịch sử mà do
thái độ “Bất cố liêm sỉ”, một trí thức không biết hổ thẹn nhục nhã khi nhận những
tri thức của người khác là của mình. Họ
Võ biết điều đó nhưng vẫn tự nhận là người sáng tạo ra hình thái chiến tranh
nhân dân để tự đánh bóng mình, tự tô vẽ nên “Huyền Thoại” không có thật về “Người
hùng Điện Biên”. Cũng chính vì thực dân Pháp cố bám vào thuộc địa VN trong
khi các nước khác đã trao trả độc lập cho các quốc gia nhược tiểu nên thế giới
nhìn cái gọi là chiến thắng Điện Biên cũng như hình thái chiến tranh nhân dân
như một chiến thắng chế độ thực dân của dân tộc nhược tiểu và Việt Nam trở
thành một biểu tượng của các nước nhược tiểu. Chính những yếu tố này đã thêu dệt
tô điểm cho họ Võ như một danh tướng thời đại.
Chúng ta cùng đọc
lại một đoạn lịch sử Việt viết về chiến thắng của quân dân Việt giết chết viên
tướng Đồ Thư và đánh tan 50 vạn quân Tần năm 210 TDL như sau:“Năm 221
TDL, để củng cố quyền lực thống lĩnh Trung Nguyên, Tần Thủy Hoàng cử thừa tướng
Lý Tư lo việc thống nhất văn tự, diệt Nho, đốt sách để tiêu hủy toàn bộ chữ
viết di sản văn hoá của Việt Tộc, đồng thời triệt tiêu mọi ý thức chống đối
khắp Trung Nguyên. Tần trở thành một đế quốc hùng mạnh và bắt đầu bành trướng
thế lực xuống phương Nam để xâm lược thống trị các quốc gia Bách Việt còn lại.
Năm 218TDL, Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư đem 50 vạn quân tiến xuống Lĩnh Nam. Năm
214TDL, quân Tần tràn xuống các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây bây giờ và
đánh chiếm được một phần Lĩnh Nam rồi chia làm 3 quận gồm Nam Hải (Việt Đông
tức Quảng Đông bây giờ), Quế Lâm (ở phía Bắc và Đông của Việt Tây tức Quảng Tây
bây giờ) và Tượng Quận (Bắc Việt Tây và Nam Quí Châu). Quân Tần tiến sâu vào
đất Bách Việt lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Quân trưởng Tây Âu là Dịch
Hu Tống hy sinh, An Dương Vương tổ chức cuộc toàn dân tiêu thổ kháng chiến
chống Tần. Quân dân Việt dưới sự lãnh
đạo của các thủ lãnh quân sự gọi là Quân trưởng, tổ chức tiêu thổ kháng chiến
rút vào rừng sâu nhưng thường bất ngờ đột kích gây hoảng loạn trong hàng ngũ
quân Tần. Quân Tần không quen thổ nhưỡng phương Nam nên ngã bệnh rất nhiều.
Tinh thần quân giặc hoang mang lo sợ,
dân quân Việt thừa thế tổng phản công giết chết tướng giặc Đồ Thư tại trận,
quân Tần tháo chạy về nước. Đây là cuộc chiến tranh du kích đầu tiên trong
trường kỳ lịch sử của Việt tộc đã đập tan đạo quân bách chiến bách thắng của đế
chế Tần hùng mạnh.
Theo Lưu An trong tác phẩm “Hoài Nam Tử” thì chính An Dương
Vương và Trung Tín Hầu Vũ Bảo Trung, Cao Cảnh Hầu Cao Nỗ là những tướng tài có
công cùng An Dương Vương và tòan quân tòan dân tiêu diệt gần nửa đại quân của
giặc Tần. Sách Hòai Nam Tử của Lưu An cũng chép “Người Việt vào rừng không chịu
cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau suy cử người tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm
đột kích quân Tần, đốt phá lều trại và giết được Đồ Thư, máu chảy thây phơi
hàng mấy chục vạn người!”. (Trích
Lược Sử Việt Nam của Phạm Trần Anh)
CÔNG VÀ TỘI CỦA VÕ NGUYÊN GIÁP
Nếu cho rằng Võ Nguyên Giáp có công
đánh thắng quân Pháp tại chiến trường Điện Biên là một sai lầm vì như trên
chúng ta đã phân tích, họ Võ Tổng chỉ huy trên danh nghĩa còn mọi tham mưu,
điều động đều do cố vấn Trung Cộng. Vả chăng, một vị tướng không dám xông pha
trận mạc, chỉ đứng dưới giao thông hào ở bộ chỉ huy thì làm sao tạo được chiến
công. Chính những chiến binh Việt Nam
yêu nước trong hàng ngũ Việt Minh mới là người chiến thắng. Biết bao chiến sĩ
vô danh đã hy sinh anh dũng để mang lại chiến thắng lịch sử này, vinh quang
phải thuộc về họ.
Xin cúi đầu tưởng nhớ và ghi công
những chiến sĩ vô danh, những người anh hùng đã đóng góp xương máu trong cuộc
chiến tranh bi thảm mà đảng CS đã lợi dụng lòng yêu nước, hy sinh bừa bãi sinh
mạng của các chiến sĩ để xâm lược bành trướng chủ nghĩa CS bất nhân hại dân bán
nước Việt Nam. Việt gian CS đã lợi dụng xương máu của hơn 4 triệu người Việt
Nam để nhuộm đỏ Việt Nam theo chỉ thị của CS quốc tế, thế nhưng khi được hỏi có
hối hận gì về việc hy sinh bừa bãi này không thì cả Hồ Chí Minh và Võ Nguyên
Giáp đã núp dưới chiêu bài Kháng chiến trâng tráo trả lời “Không, không hối tiếc gì cả…”.
Mạng
sống của thanh niên Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Họ Võ sẵn sàng thí quân
trong các trận chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm
1950, để tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới
10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500 quân Việt
Minh tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng Phủ Lý,
Ninh Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển người của Giáp
đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm tiêu diệt. Quân Việt
Minh, dưới sự chỉ huy của Giáp, đã bị thiệt hại nặng nề. Số tử vong của quân Việt
Minh lên tới 6 ngàn người không kể số bị thương phải gấp đôi, gấp ba con số
6000.
Ngoài
ra, hình ảnh những người lính miền Bắc xích chân vào khẩu trung liên trong cuộc
chiến xâm lược miền Nam đã chứng tỏ rằng đảng Việt gian Cs nói chung và họ Võ
nói riêng đã không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để đạt chiến thắng. Năm 1995, Hội
Văn nghệ quân đội Nga xuất bản quyển “Mặt trái của chiến tranh” trang 15 đã tố
cáo: “Các cuộc chiến đều đem lại đau thương và người ta thậm chí còn kích
thích tinh thần người chiến sỹ bằng những liều thuốc. Người Đức dùng Ma túy tổng
hợp, người Trung Quốc dùng thuốc tự chế tên gọi “hùng tâm” mà sau này có dùng
trong chiến tranh Việt Nam cho quân đội Miền Bắc...”.
Lịch sử Việt Nam
cận đại chắc chắn sẽ không quên việc Hồ Chí Minh đã cử Huỳnh Thúc Kháng làm quyền
CT nước trước khi sang Pháp để tránh tiếng ác và đổ tội cho nhân sĩ họ Huỳnh, sau khi đã chỉ
thị cho bộ trưởng quốc phòng Võ Nguyên Giáp dàn dựng “Ôn Như Hầu” để thanh toán
tiêu diệt những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Theo sử gia nổi tiếng Pháp
Philippe de Villiers, tác giả quyển
“Histore Contemporaine de l'Indochine ” và ông Hoàng Văn Đào, tác giả quyển “
Việt Nam Quốc Dân Đảng ” cho biết: “Khi Hồ
Chí Minh qua Pháp, đã giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc đó đang giữ chức Bộ trưởng
Bộ Nội Vụ được tạm quyền thay thế chủ tịch Nước. Võ Nguyên Giáp lợi dụng lúc cụ
Kháng đi kinh lý tỉnh Quảng Nam - lúc đó ông Giáp tuy đang giữ Bộ Quốc Phòng -
trong mưu đồ có phương tiện và cơ hội ra tay triệt hạ các chiến sĩ quốc gia chống
VM cộng sản, Giáp lại đề nghị kiêm luôn chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội Vụ để tiện thực
hiện mưu đồ gian ác. Ngày 13-7 Võ Nguyên Giáp lệnh cho bộ đội và công an các địa
phương tấn công triệt hạ các chiến khu VNQDĐ, trừ trụ sở Trung Ương Hà Nội. Và chỉ trong vòng một tháng thì bàn tay đẫm
máu của Giáp đã triệt hạ và tận diệt hết lực lượng quốc gia và chiến sĩ yêu nước
liên hệ...”. Qua sự việc
này, Võ Nguyên Giáp quá ác độc với chính đồng bào mình và thủ tiêu đảng phái quốc
gia khác, giành độc quyền lãnh đạo để bán nước hại dân.
H. Berrier đánh giá về hành động ám sát khủng
bố những người quốc gia không cộng sản với những chứng cứ Võ Nguyên Giáp là “một
tên đồ tể”. “Vào năm 1944, những ngày đầu
tiên khi còn hoạt động bên cạnh Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Tướng Bình đã cùng với
Võ Nguyên Giáp ám sát, khủng bố những thành phần quốc gia chống Pháp mà trước
đây Bình từng là đồng chí với họ thời năm 1930. Bình và tướng Giáp đả mở những
cuộc thanh trừng và sát hại rất nhiều thành phần được coi là Việt Gian. Khi giết
những đồng chí Quốc Dân Đảng, phải chăng Nguyễn Bình muốn trả cái thù bị đâm chột
mắt khi còn bị giam ở Côn Đảo? Rõ ràng cái gợi hứng ám sát và thủ tiêu những
thành phần thù địch, Nguyễn Bình bước đầu cùng đi một con đường với tướng Giáp”
(Tóm lược Hillaire du Berrier, Background
to Betrayal, trang 66-67 của Nguyên Hùng). Chính Võ Nguyên Giáp đã nói với Nguyễn
Bình: “Anh hãy nghe đây, Anh là một người
quốc gia thông minh. Anh phải đứng chung trong hàng ngũ của chúng tôi nếu không
chúng tôi sẽ thủ tiêu những người bạn trẻ của anh. Chúng tôi phải làm như vậy bởi
vì họ sau này có thể là những kẻ phản bội. Anh đã biết nếu những người này trở
thành những người anh hùng? Bây giờ thì có thể họ chưa là gì, nhưng sau này thì
họ sẽ đi vào lịch sử. Bởi vì họ đã làm được một số công trạng trong những năm vừa
qua (ý nói vụ nổi dậy của Việt Nam QDĐ và 13 Liệt sĩ lên đoạn đầu đài), họ
ham muốn quyền lực. Nhưng họ lại không xứng đáng được. Và để đạt được quyền lực
đó, họ chỉ có một con đường mà họ có thể làm được. Là họ sẽ cộng tác bắt tay với
bọn Quốc Dân Đảng hoặc với Pháp. Họ phải bỏ đi thôi.” (Tóm lược Hillaire du
Berrier, Background to Betrayal , trang 66-67 của Nguyên Hùng).
Robert
J O’ Neill đã nhận xét về việc làm của họ Võ, đây chính là cáo trạng tội ác của
Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và đồng bọn trước lịch sử: “Tướng Võ Nguyên Giáp chịu tất cả mọi trách nhiệm trong khi Hồ Chí Minh
vắng mặt về việc sát hại hằng trăm các nhà chính trị dám chống lại Việt Minh,
phá hại tất cả các tổ chức nào xem ra có thể cạnh tranh với Việt Minh cũng như
cấm đoán mọi tờ báo nào xuất bản mà không có sự kiểm soát của Việt Minh…”(Trích
“Robert J O’ Neill, General Giap: Politician & Strategis t, trang 44”).
Trong
tác phẩn “ Losers are Pirates” by James Banerian 1984, Tr.69), James Banerian
đã nhận định: “Năm 1946, Hồ Chí Minh ký
hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh tụ Công Sản, trong đó
có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia Năm 1946, khi cuộc chiến
tranh Việt - Pháp sắp xảy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên
hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và
đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ
đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp. Ngày 19 tháng 12,
chiến tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông từ mấy
ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ Thành đánh vùi với
quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân Pháp trong gần 2
tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh nạn, đủ để đám Cộng Sản rút
vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng
bọn muốn mượn tay quân Pháp để giết chết các thanh niên Hà Nội mà hầu hết là những
thanh niên yêu nước thuộc thành phần tiểu tư sản không theo CS, là thành phần
mà CS chủ trương phải tiêu diệt…
Trước những tội ác ngập đầu kể trên, hàng chục triệu người
Việt Nam nghĩ rằng cuộc đời “Thất sủng” hẩm hiu của viên tướng họ Võ, cũng như
cuối cuộc đời nằm thoi thóp trên giường bệnh cả 4 năm trời, chính là để trả cái
nghiệp bất nhân gian ác, giết chết biết bao nhiêu người vì tham vọng cá nhân,
vì chủ trương của đảng. Biết bao người dân Việt Nam chép miệng thở dài, ngao ngán
vì họ đã thấy “Quả báo nhãn tiền, đa thọ đa nhục”, càng sống lâu càng nhục nhã
của họ Võ.
Để kết thúc bài viết về con người
thật của “Đại Tướng” họ Võ, xin mượn lời của nhà báo Hoa Kỳ Tim Karr nói Tướng
Giáp “Đáng ra có thể làm nhiều hơn để Việt Nam phát triển...”. Nhất là Tướng Peter Mac Donald của Quân đội
Hoàng gia Anh, một nhà quân sự già dặn từng ở trong quân đội Anh 32 năm, chủ
biên quyển “Lịch Sử Thế Giới” đã sang Việt
Nam gặp tướng Giáp hồi 1987 để viết cuốn «GIAP - hai cuộc chiến tranh Đông Dương»
(GIAP - les deux guerres d’ Indochine) do nhà xuất bản Perrin - Paris
phát hành năm 1992, trong đó ông nhận xét: “Những
tư tưởng của tướng Giáp được ghi lại trên giấy thường là chán ngán đến chết người”. Để
Kết luận P. Mac Donald viết: “Từ khi còn trẻ, tướng Giáp đã thấm nhuần lý
thuyết Cộng sản. Thật đáng tiếc là trải qua mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông
minh của ông đã có thể mách bảo ông rằng cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là
sai lầm tệ hại, để từ đó tìm ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của
ông. Như một người theo Công giáo thời Trung cổ sợ hãi bị trừng phạt khủng khiếp
khi bỏ đạo, ông đã mù quáng phục vụ đường lối Marx – Lénine theo như Hồ Chí
Minh dẫn giải”.
Trên
đây là những nhận xét khách quan của những
người ngoại quốc mà còn suy nghĩ như vậy, huống chi những cựu chiến binh, những
người mến mộ ông ta chắc chắn là sẽ thở dài, tiếc nuối mà chép miệng “Giá mà, “Đại Tướng của ta” có cái dũng khí
thực sự của một ông tướng đúng nghĩa là dám nói dám làm thì có lẽ số phận ông
ta không hẩm hiu như vậy. Một sống một mái, sống thì vinh quang, mà có chết
thì cũng vinh quang… dù là vinh quang kiểu “xã hội chủ nghĩa”. Thật tiếc là
“Đại Tướng” Võ Nguyên Giáp của họ đã không được như vậy!
Cuối cùng, một mai khi khi đất nước thay đổi thì nhân dân Việt
Nam sẽ phán xét tối hậu về công và tội của cả Hồ Chí Minh lẫn Võ Nguyên Giáp
trước lịch sử một cách công minh chính đáng nhất.
PHẠM TRẦN ANH
Hồi ký “ “Mẫu Mực sáng ngời của Chủ
Nghĩa Quốc Tế Vô Sản” do Lã Quý Ba (Luo Guibo), Trưởng Đoàn Cố Vấn Chính Trị
cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1951-1954, Đại Sứ Trung Quốc tại VNDCCH từ
1954-1975, xuất bản bởi Bắc Kinh năm 2002, đã xác nhận chính Hồ Chí Minh đã
“Cõng rắn về cắn gà nhà” khi họ Hồ năn nỉ
Trung Quốc và Liên Sô công nhận cái gọi là Nhà nước VNDCCH.
Lã Quý ba viết: “vào thời điểm này, trên quốc tế chưa có một
nước nào công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, không có một tổ chức quốc tế
nào đặt quan hệ với Việt Nam, Việt nam chưa giành được vị thế quốc tế, cũng
không được viện trợ bên ngoài. Vấn đề viện trợ Việt Nam chống quân xâm lược
thực dân Pháp như thế nào là một việc lớn mà lãnh đạo tối cao ba phía Trung
Quốc, Việt Nam, Liên Xô trao đổi bàn bạc.” Lã quý Ba xác nhận rằng Hồ Chí
Minh đã vội vã đề nghị các nước Xã Hội Chủ Nghĩa công nhận Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, mới đầu Liên Sô bác bỏ nhưng sau khi Trung Cộng công nhận VNDCCH ngày
18-1-1950 thì ngày 31-1-1950 Liên Xô mới công nhận VNDCCH. Đầu tháng 1-1950, Hồ
Chí Minh sang Trung Quốc xin được công nhận: “Hồ Chí Minh từ xa xôi nghìn trùng đến Trung Quốc, đi Liên Xô là để mong
được sự viện trợ nhiều mặt, nhất là viện trợ về quân sự và kinh tế tài chính.
Stalin cho rằng, Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam, hiểu rõ tình hình
Việt Nam, còn Liên Xô và các nước Đông Âu chịu nhiều vết thương chiến tranh
nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Sô còn phải giúp đỡ các nước
XHCN Đông Âu khôi phục và xây dựng, trên vai còn rất nặng gánh, mong rằng nhiệm
vụ viện trợ Việt Nam, Trung Quốc là chính.”
Lã Quý Ba viết tiếp:
“Tháng 1, 1950, Hồ Chí Minh đích thân
bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc viện trợ Việt
Nam chống Pháp. Trung ương đảng ta theo yêu cầu của Hồ chí Minh và Trung ương
Đảng Đông Dương, đã báo cáo và được Mao Chủ Tịch đồng ý, quyết định cử tôi bí
mật sang Việt Nam, làm đại diện liên lạc giữa Trung ương đảng Cộng Sản Trung
Quốc và Trung Ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ còn tự tay
viêt giấy giới thiệu cho tôi:
“Xin giới thiệu
đồng chí Lã Quý Ba, Bí thư Tỉnh Ủy và chính ủy trong quân đội của chúng tôi đến
chỗ các đồng chí làm đại diện liên lạc của Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc,
đi theo có 8 tùy tùng ». Lưu Thiếu Kỳ, Bí Thư Trưởng Trung Ương Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, ngày 17/1/1950”
Lã Quý Ba đại diện của đảng CSTQ làm cố vấn chính trị cho Đảng CSVN và
tướng Trần Canh làm cố vấn quân sự. Mọi kế hoạch đều do Trần Canh vạch ra và
chỉ đạo trực tiếp. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình chiến tranh giữa Việt
Minh và Pháp, La Quý Ba nhận xét:
“Bước đầu tiên viện trợ Việt Nam là
phải khai thông giao thông biên giới Trung-Việt, vì có thế vật tư viện trợ Việt
Nam mới có thể chở sang Việt Nam thuận lợi. Chỉ cần quân đội Nhân dân Việt Nam
chiếm con đường giao thông chủ yếu trên biên giới Trung-Việt thì quân Pháp sẽ
mất ưu thế số một. Chỉ có hai lựa chọn khai thông con đường giao thông chủ yếu
biên giới Trung-Việt: một là đánh Cao Bằng tiếp giáp giữa Việt Nam và Quảng
Tây; một nữa là đánh Lào Cai tiếp giáp giữa Việt Nam và Vân Nam. Đánh Cao Bằng
trước hay đánh Lào Cai trước, hay là đánh cả hai cùng một lúc, Trung Ương đảng
Cộng Sản Đông Dương và Trung Ương đảng ta đều đã điều tra nghiên cứu, suy nghĩ
trao đổi nhiều lần gần 3 tháng. Ngày 02/07/1950, Mao Chủ Tịch gửi điện trả lời
Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam: “Đồng
ý ý kiến đánh Cao Bằng trước, phương án tác chiến cụ thể đối với Cao Bằng, chờ
sau khi Trần Canh đến, do các đồng chí quyêt định cuối cùng….”. Tài
liệu này đã xác nhận một sự thật lịch sử là Trần Canh chính là nhân vật cố vấn
tối cao về chiến tranh Việt Nam, không phải Võ Nguyên Giáp cũng không phải Hồ
chí Minh. Dĩ nhiên, Mao Trạch Đông là lãnh tụ cao nhất. Quân Ủy và Bộ Chính Trị
Trung Cộng giữ vai trò chỉ đạo từ Bắc Kinh. Lã quý Ba kể thêm về sự khẩn nài
của Hồ Chí Minh như sau:
“Mùa đông năm 1951, Hồ Chí Minh một lần nữa bí mật đến Bắc Kinh thăm Trung
Quốc.”
Sau khi kể về việc ôm hôn thắm thiết, La Quý Ba cho biết: “Trong trao đổi,
Hồ chí Minh hỏi Mao Chủ Tịch:“Bộ Chính Trị Trung Ương chúng tôi yêu cầu
đồng chí Lã Quý Ba khi tham gia hội nghị Bộ Chính Trị Trung Ương chúng tôi nêu nhiều ý kiến về các mặt công
tác của chúng tôi, giúp đỡ nhiều cho chúng tôi. Nhưng đồng chí quá thận trọng,
quá khiêm tốn. Tôi mong các đồng chí giao cho đồng chí ấy nêu nhiêu ý kiến.
Mao Chủ Tịch, các đồng chí có đồng ý
không?”. Sự kiện này xác nhận một lần nữa vai trò của Lã Quý Ba chỉ đạo bộ
chính tri của đảng CSVN. Lã Quý Ba kể tiếp: “Hồ Chí Minh còn đóng kịch là một đệ tử chân thành, Hồ chí Minh là người
rất giầu tình cảm, nhìn thấy rõ người bị truyền cảm bởi sự chân thành của Mao
Chủ Tịch, Người đứng dậy nói: “Tôi và các đồng chí Việt Nam đều cảm nhận sự
chân thành giúp đỡ chúng tôi từ trong hành động của các đồng chí”.
Lã quý Ba còn kể nhiều chi tiết mọi
sinh hoạt của đảng Cộng Sản Việt Nam đều được chỉ thị của Trung Cộng: “Dù là điện của Trần Canh, Vi Quốc Thanh và
tôi xin chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương Đảng hay chỉ thị của Mao Chủ Tịch,
Trung Ương đảng đối với chúng tôi, dù là bức điện về mặt tác chiến (như chiến
dịch Biên Giới, chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Tây Bắc. v.v..) xây dựng
bộ đội và huấn luyện bộ đội, hay là những bức điện vấn đề quan trọng về mặt xây
dựng tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng, công tác tài chính kinh tế, công
tác cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế và công
tác công an, tình báo, dân tộc thiểu số..v.v.. Mao Chủ Tịch đều đích thân phê duyệt, sửa chữa, ký cho chuyễn đi, trong
đó có những bức điện đặc biệt quan trọng, Mao Chủ Tịch tự khởi thảo, khi
trả lời các bức điện của Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam trưng
cầu ý kiến Trung Ương Đảng hoặc các bức điện quan trọng của Mao Chủ Tịch, Trung
Ương Đảng nêu ý kiến hoặc kiến nghị với Hồ Chí Minh…”. Sự thật lịch sử này
đã phơi bầy rõ ràng Đảng CSVN trên thực tế là một chi bộ của đảng CSTQ, cánh
tay nối dài của Trung Cộng để thực hiện
ý đồ xâm chiếm VN và các nước Đông Nam Á.