Bác Sĩ Phan Huy
Quát
Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại
Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng,
lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm
1965.
Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng,
phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16
Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và
chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ
cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát
trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại “như một
nén hương chiêu niệm chung”.
Trong thời gian bị cầm tù, Bác
Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do
gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có
thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi,
chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư
1979.
Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát
tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay,
vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng
sợ dư luận quốc tế – nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền
Nam – có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi
thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái
chết trong tù của ông – bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn
nghệ sĩ khác – của nhà cầm quyền Hà Nội.
Chí Hòa, Sài Gòn
Một ngày cuối Tháng Tư
1979
Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED
được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba
ngày rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo
đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được
phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý
thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn
15 phút.
Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác
đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục
đích riêng.
Kiểm tra xong số người ở lại
mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng
guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi
lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang
oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc
nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn
dập trên da. Hạnh phúc thật!
Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy,
sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác.
Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách
chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ.
Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt
ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí
hơn.
Căn phòng chỉ còn lại hai
người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên
diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không
gian đã được chia rất đều cho sáu mươi tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh
từ mỹ miều là “trại viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai
cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình
thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang
màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm
im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân
của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần,
chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ
Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70
tuổi.
Tôi đảo mắt một lần nữa suốt
dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng
động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ
Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào
chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận
có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi
tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng
phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm
bệnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc
cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và
tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên
một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con
người và hoàn cảnh.
Tôi khẽ lên tiếng:
“Anh
Quát! Anh Quát!”
Không một phản ứng của bệnh
nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn
không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu.
Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không
muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói
ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi
nữa.
Buồng 5 chúng tôi vẫn được
Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED
vì chứa một cựu Thủ tướng, ba cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít
dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy
nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài
ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm
lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh
hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm:
“Anh Quát! Anh
Quát!”.
Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải
làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác
Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ:
“Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi
không?”.
Lần này đôi mi bệnh nhân hơi
động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng
cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân
vắn tắt thều thào:
“Anh
Tú!”
Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát
tai Bác Sĩ Quát, tôi nói:
“Anh mệt lắm phải
không?”.
Ðầu bệnh nhân hơi gật gật.
Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng
hơi nghẹn:
“Anh có nhắn gì về gia đình
không?”.
Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt
vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục
anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May
lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát:
“Ai đặt bày, lừa bắt
anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!”.
Ðôi môi bệnh
nhân như mấp máy.
Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai
tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc,
nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần
mười:
“Thôi! Anh Tú ạ”
Tiếng guốc, dép, tiếng cười,
nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông:
“Nói đi! Anh
Quát! Nói đi!”.
Một hơi thở một chút gấp hơn,
như làn hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi! Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng
cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu
mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên
trán.
Ngoài hành lang, các bạn tù
hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi.
Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố
nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười
đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó
tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau
trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng
tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua
hàng chiếu giữa, phía sát tường:
“Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh
tình hôm nay ra sao?”
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng
trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát.
Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn
ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì
đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người
đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là
một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong
tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người
dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn
liệm.
Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi,
lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng:
“Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin
đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá
chứ!”.
Phương là hạ sĩ quan binh
chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì
“xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu “Phương đầu bạc.” Phương lặng thinh,
coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương
đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi
quay về phía Bác Sĩ Châm:
“Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của
Bác Sĩ Quát đi!”.
Ông Châm bèn bảo:
“Anh
Phương! Báo cáo cán bộ ngay
đi!”.
Phương không đáp, lộ rõ vẻ
ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt:
“Báo
cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người
ta chết à?”.
Căn phòng đang im ắng, sống
động hẳn lên.
Nhiều bạn đang nằm, nhóm người
nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi
phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo
sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi
vọng:
“Ðâu?”.
Bác Sĩ Châm nhích người qua
một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát:
“Ðây, cán
bộ!”.
Nhìn một lát, cán bộ quay
lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn
phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh
tử của trại.
Chừng 20 hay 30 phút sau, có
tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca
tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo
động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của
mình.
Phương “đầu bạc” dẫn hai anh
mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy
được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca.
Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ
Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng,
chén… Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng.
Dưới sân, một tiếng kêu lớn:
“Lấy
cơm!”.
Căn phòng trở lại cuộc sống
đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ
rưỡi.
Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở
về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết rồi!”, Cả phòng nhao
nhao:
“Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá
vậy?”.
Một anh đáp: “Nghe nói, hồi
trưa hôm qua thì phải”.
Chỉ một lát cáo phó miệng của
các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào
hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: “Bệnh như vậy, suốt hơn một
tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!”. Một điếu
văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc
lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không
bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ
Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe
không!”. Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ
“trại viên” nào.
Lần này, là cái chết của một
vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã
được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông
trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén
của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người
kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao
nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh
không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những
ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn
là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi
vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà
được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát
đâu ra đến nông nỗi đó.
Năm 1979 vẫn còn nằm trong
thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.” Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu
xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút
nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng
vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối
phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau “đại
thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những
người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt
Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo
dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở
miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng
càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng,
nhiều người trong phòng có cảm giác “ăng ten,” tức chỉ điểm viên, đã được tăng
cường.
Cuộc sống tiếp tục trong bầu
không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng “dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân
tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt
đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám
1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con
chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không
được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc
vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối
cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về
nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật
đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không
bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một
ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể
xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy
Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh
nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh
cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh
mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi
còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho
phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ
được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho
Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan.
Lần “nhìn thăm” thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó
cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của
căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám
sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi
bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm
hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát
chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi
vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ
Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một
thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi
chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy
Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất
cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy
Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về
nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với
những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn
là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy
Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối
năm 1979, Huy Anh mới được thả.
Trong thập niên 1940, Bác Sĩ
Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân
của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm
nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ
gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề
tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại
thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của
ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long
với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của
quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư
cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng
Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở
miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở
Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam
bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh
ngày 20 Tháng Bảy 1954. Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm
thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo
Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc
Phòng.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ,
mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm
cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống
Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ
Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản
tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc
đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa
lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng
thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và
Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh,
tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được
mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964
rồi lại trở về phòng mạch.
Cuộc đời chính trị của ông đạt
tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn
Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng
thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải
quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển
phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của
ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ
tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư
1975.
Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị
Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa
hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao
năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối “chính quy,” trong “đường
lối chính quy.” Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà
trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức
bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật,
mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh
khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật
cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ
càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc
thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt
động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy
mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn
thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy
đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ
dàng.
Sau ngày Sai gon thất thủ 30
Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp “lời mời” ra trình diện của Việt
Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất
cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai
hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền
Vương và bắt đầu cuộc đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng
bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ.
Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên
ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất
ở quận Phú Nhuận.
Những ai đã sống ở Saigon sau
ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao
trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày
nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh
đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ
định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ
chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi
cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra,
cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam
bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện
tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm
ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống
Cộng.
Hai lãnh vực này tưởng là hoàn
toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm
đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối
vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi
cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ
sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn
nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh
thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn
cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt
biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không
kém.
Thực ra, khoảng một tuần trước
ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông
Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ
nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi
nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở
Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ.
Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông
gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn
của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày
29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối
hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên
Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác
Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có
Bác Sĩ Quát và gia đình.
Như đã nói, ông nặng tình gia
đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia
đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông
cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu
ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ
Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương,
đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã
chọn.
Ông bằng lòng cho con trai út
Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác
Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên
quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ
Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt
biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ
chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ
chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn
mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi
tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa.
Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và
mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con,
cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua
ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu
đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có
lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không
thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi
trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được
thả.
Về phần Bác Sĩ Quát và con
trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín
đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh
ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã
có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định.
Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút
súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư
lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu
cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống
bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ
đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng
đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối
cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao
nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng
có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết
thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất
thủ.
Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã
vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng
kìm Việt Cộng.
Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch:
1978)
Gần một tháng trước Tết Mậu
Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ
riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy
ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác,
gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi
thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng
chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có
để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. “Ăng
ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu”
của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh
sát, đường Võ Tánh. Ông kể:
“Chúng bắt tôi viết bản tự
khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không
dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng,
tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ
cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính
đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng
không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn
một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả
lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để
bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn
xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ
từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc,
đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người
nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam.
Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng
cũng nhận tập viết của tôi”
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: “Anh
có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? – Tôi ngờ lắm.
Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng
rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu
Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa
biết điều đó hơn ai hết”
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng
cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng
tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn
trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành
lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát
về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có
thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống
dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần
cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải
cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ
Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh
bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha
hả.
Sau Tết, chúng tôi bị chuyển
sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt
giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập.
Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để
rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một
ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự
nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho
tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ,
ngột ngạt.
Ngày này sang ngày khác, mọi
người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác
Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về
sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn
tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố
ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ
cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những
chức vụ cao sang trong chính quyền
cũ.
Ông biết hòa mình một cách
đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên
bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt
qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng
đáng nhãn hiệu “tên phản bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao
dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên
tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu
hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông
đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một
cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã “được” Việt
cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu
sữa.
Ông biết chừng nào Việt Cộng
chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là
phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi
khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông,
buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu
gió.
Vì ông đã
cứng.
***
Tôi thường nghĩ, trong suốt
cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất,
có ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan
sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo
dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ
Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận
nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu
cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với
phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa
Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành
giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính
trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học,
qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia
mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được.
Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong
mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ
của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã
được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch
giáo dục Phan Huy Quát.” Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế
hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến
bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân
tộc.
Thành công nào có thể đẹp hơn,
lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con
người?.
***
Một phòng lẻ loi dành cho lính
gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa
phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm
ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống
chân.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát,
cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè
nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí
độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái
tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị
nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt
Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt
Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc
tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu
ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem
thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối
ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh
hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ
thứ!.
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên
phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho
chắc!.
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên
bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ
của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót
lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng
chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu
vi trùng”.
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một
nghi vấn.
***
Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất
giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:
“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm
đây…”
Gọi là một chút để ấm lòng người đã
khuất.
Nguyễn Tú
Ký giả Nguyễn Tú, nguyên
đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính Luận tại Việt
Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong
lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ.
Ký Giả
Nguyễn Tú, đã trút hơi thở cuối cùng tại Trung Tâm Dưỡng lão Manor Care,
Alexandria, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, chiếu ngày 11-07-2010 hưởng thọ 86
tuổi.
No comments:
Post a Comment