Định nghĩa lại nhân dân trong hiến pháp
Tạ Dzu gửi RFA
2013-10-30
Kể từ năm 1945 đến nay, nhà nước Việt Nam đã đưa ra bốn bản hiến
pháp khác nhau nhưng chưa bao giờ người dân được quyền tham dự vào việc
quyết định sinh mệnh chính trị của mình thông qua tiến trình phúc quyết
hiến pháp. Nhân dân dưới chế độ cộng sản chỉ là công cụ và phương tiện
phục vụ cho ý đồ cầm quyền của đảng. Nhân dân chưa bao giờ là đối tượng
phục vụ, là thực thể lẽ ra phải là chủ nhân ông đất nước, có quyền lực
thực sự.
Do đó, cần phải định nghĩa và đặt lại vai trò của nhân dân trong hiến pháp.
‘Dân’ trong Nhân Dân
Dân, là người trong mỗi xã hội riêng biệt. Do phân bố địa lý, hoàn
cảnh lịch sử và văn hoá khác biệt, người dân tại mỗi quốc gia mỗi khác
nhau. Do đó, ‘dân’ mang tính đa nguyên tương đối. Muốn thế giới ổn định,
phải tôn trọng tính đa nguyên của (các) dân (tộc). Chủ nghĩa cộng sản
đã hoàn toàn sai lầm khi chủ trương xóa bỏ dân tộc để mơ ước tiến đến
đại đồng quốc tế. Họ không nhìn ra và phá vỡ quy luật đa nguyên tương
đối này. Trên bình diện quốc gia, chính quyền cũng phải tôn trọng tính
đa nguyên giữa các giai tầng quốc dân. Chủ trương chỉ công nhận giai cấp
công nhân hay những người được đảng cộng sản chấp nhận, cũng phá vỡ quy
luật đa nguyên của dân.
Một cách thông thường, nhân dân được hiểu là tất cả mọi người dân
trong một nước – toàn dân hay quốc dân. Từ điển tiếng Việt của người
cộng sản định nghĩa nhân dân là “khối người đông đảo làm nền tảng cho một nước…”
không mang ý nghĩa toàn dân. Nó là thuật ngữ mang ý nghĩa chính trị,
thuộc phạm trù ý hệ Mác Lê. Nhân dân, theo những người cộng sản, không
phải toàn dân mà “… gồm các giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản
và tư sản dân tộc. Những tầng lớp ấy, do giai cấp công nhân lãnh đạo,
cùng tham gia chính quyền…” như Trường Chinh xác nhận trong dịp báo cáo trước Đại hội 2.
Điều này nêu lên ba quan điểm về nhân dân của người cộng sản.
Thứ nhất, theo Mao Trạch Đông, Trường Chinh cũng quy định có bốn giai
cấp họp thành nhân dân nhưng không đưa ra tiêu chuẩn ổn định để xác
định giai cấp tính. Chẳng hạn thế nào là tiểu tư sản và tư sản dân tộc?
Tại sao rất nhiều tư sản dân tộc theo đảng từ những ngày đầu mà bị phản
bội, bị truy tố trước toà án nhân dân hoặc bị âm thầm thủ tiêu dã man
không ai biết đến? Tại sao Giang Trạch Dân lại cho phép hàng ngũ đại gia
tư bản - những kẻ trên lý thuyết phải bị tiêu diệt - trở thành đảng
viên theo thuyết “ba đại diện” của ông ta?
Thứ nhì, theo lý thuyết, giai cấp công nhân lãnh đạo tất cả các giai
cấp khác; trên thực tế, chỉ những kẻ đại biểu mới được đứng trong hàng
ngũ này. Đảng cộng sản tự phong cho mình là đại biểu của giai cấp công
nhân. Mặc nhiên, chỉ có đảng mới thực sự lãnh đạo không chỉ ba giai cấp
còn lại, mà cả những ai không được may mắn quy định nằm trong bốn giai
cấp trên.
Thứ ba, mặc dù thòng thêm câu “cùng tham gia chính quyền”, nhưng đại
biểu những giai cấp còn lại không thực sự có thực quyền. Những người
ngoài đảng lại càng không. Điều 3 Hiến pháp 1980 định nghĩa nhân dân như
sau: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người chủ tập thể
là nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập
thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác mà
nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Theo
định nghĩa này thì nhân dân không phải là toàn dân. Ngay cả những người
cùng một giai cấp được công nhận trước kia cũng bị phân biệt rõ rệt:
Cùng là nông dân, nhưng nông dân tập thể được đứng trong hàng ngũ nhân
dân; nông dân cá thể thì không. Cũng vậy, trí thức “Xã hội Chủ nghĩa”
được nhìn nhận, trí thức “suông” thì không (*).
Lực lượng dân phòng ở TPHCM. AFP photo
Đầu thập niên 90, do sự lung lay tận gốc rễ của chủ nghĩa cộng sản
với sự sụp đổ của các chế độ cộng sản Đông Ấu và Liên Xô, Việt Nam đành
phải đổi mới nội dung nhân dân nơi điều 2 Hiến pháp 1992: “Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức”.
Quy định này không còn phân biệt tính chất nông dân (cá thể và tập
thể) và trí thức (XHCN và không XHCN) nữa. Nhưng trong điều 4 ngay sau
đó, giai cấp công nhân và nhân dân lao động lại được nhấn mạnh như lực
lượng chính trong nhân dân. Do đó, “nhân dân” vẫn mang tính chuyên
quyết, chỉ vì quyền lợi và sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam, không
vì quyền lợi và sự tồn tại của toàn dân. Họ luôn mập mờ trong quy định
nhân dân. Khi cần, họ sẵn sàng lôi kéo những thành phần ngoài đảng, thậm
chí thuộc giai cấp đối nghịch đứng chung hàng ngũ nhân dân; lúc không
cần, người cộng sản sẵn sàng loại bỏ không thương tiếc (*).
Đây là cách nhìn và hành động của những nhà nước thiếu văn minh, của những chính quyền độc tài mà luôn hô hào dân chủ.
Trong một chế độ dân chủ, nhà nước, được toàn dân trao thẩm quyền
điều hành các hoạt động xã hội, phải tạo điều kiện cho mỗi cá nhân, các
giai tầng và xã hội dân sự phát huy hết khả năng, sinh hoạt hoà hợp nhịp
nhàng, thúc đẩy cả xã hội tiến bộ và phát triển.
Vai trò của nhà nước hiện đại, theo quan niệm mới, nghiêng nhiều về
quản trị và điều hành (managing) thay vì cai trị, lãnh đạo (ruling). Mọi
người dân ngày càng được khuyến khích tham dự vào đời sống chính trị
chung. Đây là nền dân chủ với nội dung mới - nền dân chủ toàn dân và
trực tiếp (empowered, parcitipatory democracy).
Chỉ khi nào đại diện toàn dân từ các địa phương được chính người dân
cử vào cơ quan quyền lực cao nhất là quốc hội, chứ không phải bao gồm
toàn các đảng viên cộng sản, thông qua đầu phiếu tự do, thì tính đa
nguyên của dân mới được bảo chướng. Quốc hội phải hoạt động độc lập với
đảng nhằm bảo đảm tính trung thực của các quyết định do quốc hội đưa ra
liên quan tới đời sống hàng ngày của dân. Đảng phải sinh hoạt trong
khuôn khổ luật pháp cho phép, quy định trong hiến pháp được toàn dân
phúc quyết. Đây là điều quan trọng trong việc xác định chức năng giữa
đảng và nhà nước, giữa vai trò thiết kế chính sách (chính) của ngành lập
pháp và quản trị hành chánh (trị) của ngành hành pháp. Như vậy, lập
pháp là quyền của dân, hành pháp thuộc về chính quyền, tư pháp đứng độc
lập.
Quan hệ giữa nhà nước và quốc dân phải là quan hệ hỗ tương hợp tác,
thông lưu trên dưới, đối lập mà thống nhất, không phải là lãnh đạo một
chiều từ trên xuống. Nhân dân phải được tự do, trực tiếp tham dự vào các
sinh hoạt chính trị thông qua những đại diện do chính họ bầu lên, cùng
nhà nước thiết kế và thực hiện (chấp hành) dân sinh, chứ không chỉ là
đặc quyền của các đảng viên cộng sản, dễ trở nên lạm dụng quyền lực đi
đến độc tài chuyên chế. Thực thi được điều này thì đó mới là một chính
quyền văn minh, tôn trọng người dân và được toàn dân tin tưởng, kính
trọng, không cần sử dụng bạo lực mà vẫn giữ được ổn định xã hội.
Dân chủ phải gắn liền với dân chứ không phải với đảng. Xây dựng hiến
pháp mà không gắn với (toàn) dân khiến đảng luôn phải tìm cách đánh tráo
khai niệm nhân dân.
Vào đầu tháng 10, Tổng Bí thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong tư
cách đại biểu quốc hội đã gặp gỡ cử tri các quận Tây Hồ và Hoàn Kiếm,
tuyên bố rằng dự thảo Hiến pháp được tuyệt đại đa số người dân đồng
tình. Nhưng ngay sau đó, Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)
tại Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển và
Hỗ trợ Cộng đồng đã công bố kết quả cuộc khảo sát có tên gọi Chỉ số Công
lý 2012, cho thấy 65.4% dân chúng Việt Nam không biết cũng như không
tham dự vào kế hoạch sửa đổi hiến pháp. Chỉ số Công lý 2012 đã chứng
minh ngược lại với những phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng. Không người
dân nào, ngoại trừ các đảng viên Đảng CSVN, được tham gia vào tiến
trình dự thảo hay phúc quyết hiến pháp. Đảng CSVN đang sửa đổi hiến pháp
là nhằm biện minh cho sự cầm quyền của họ chứ không cho toàn dân.
Ngày 19 tháng 11 năm 1863, khi đến thăm mặt trận tại Gettysburg, Tổng
thống Hoa Kỳ, A. Lincohn, đã tuyên bố rằng chính phủ là “của dân, do
dân, vì dân”. Định nghĩa này giúp người dân hiểu dễ dàng và giống nhau.
Chính quyền Mỹ không cần phải quy định ai là (nhân) dân, ai không. Câu
nói đơn giản đó khiến mọi người hiểu rõ ràng rằng chính quyền là do
(toàn) dân lập ra, bằng bầu cử tự do, dựa vào dân và để phục vụ dân, chứ
không phải để cai trị dân. Chính vì không phân biệt giai cấp, lấy toàn
dân làm nền tảng và là cứu cánh, hiến pháp Hoa Kỳ cho tới nay chưa phải
thay đổi, chỉ cần tu chính.
‘Nhân’ trong Nhân Dân
Những phụ nữ ở Hà Nội, ảnh minh họa. AFP photo
Nhân, là con người trong dòng lịch sử nhân loại nói chung. Dù thuộc
dân tộc nào, con người cũng là nhân. Ở đâu, có mầu da nào, mang quốc
tịch nào, con người đều phải được tôn trọng nhân phẩm như nhau, có quyền
con người như nhau. ‘Nhân’ mang tính nhất nguyên tuyệt đối.
Để công nhận một cuộc hôn nhân mới, một gia đình mới giữa hai người
nam và nữ, xã hội nào cũng có nghi thức nhằm ra mắt, giới thiệu hai
người với cộng đồng. Đó là tính nhất nguyên của nhân. Tổ chức đám cưới
như thế nào, mời bao nhiêu người, cô dâu thay bao nhiêu chiếc áo, họ
hàng và bạn bè mừng tiền mặt hay tặng phẩm cho đôi trẻ, mang tính đa
nguyên, khác nhau tùy mỗi dân tộc, mỗi xã hội.
Trong tương quan giữa mình với người khác, nhân loại luôn chọn lựa
cách ứng xử phù hợp với đời sống con người, phù hợp với nhân tính nhất,
gọi là nhân đạo - đường sống, lối sống người. Dù ở chân trời góc
biển nào, con người cũng hành xử như thế, cổ đại cũng như hiện đại, tuy
mức độ có khác nhau tuỳ vào tri thức ở giai đoạn đó, nhưng luôn là lối
sống tương hợp với nhân tính, dần rời xa vật tính. Dù trong nhiều thời
kỳ lịch sử, con người đã (và đang) có nhiều hành động, tư tưởng xa rời
nhân tính, nhân đạo, nhưng rồi, qua thời gian tiến hóa, con người lại
sửa sai và trở về với nhân đạo.
Qua quá trình sống hàng ngàn năm, chục ngàn năm như thế, con người
dần tìm ra bảng giá trị chung mà mọi người, mọi dân tộc đều thấy hợp lý.
Kể từ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, con người thức tỉnh ra, thấy
cần phải sống hoà hợp với nhau hơn thay vì gây chiến. Trong thời đại
toàn cầu hoá, mỗi dân tộc lại thấy ra hai con đường sống: không chỉ đời
sống quốc dân của dân tộc, mà còn có đời sống quốc tế của dân tộc nữa.
Giao thoa giữa các nền văn hóa, việc làm ăn buôn bán, du lịch thăm
thú nhau giữa các quốc gia, càng làm cho mọi người thấy tầm quan trọng
của những gía trị chung buộc phải tôn trọng, mới dễ tạo nên sự ổn định
toàn cầu.
Hiện tại, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền nói về quyền con người và
nền chính trị dân chủ đích thực, tham gia bởi toàn dân chứ không chỉ
còn là công việc của đảng phái, là những giá trị phổ quát, thành tựu văn
minh chung của toàn thể nhân loại. Với giá trị chung đó, các chính
quyền độc tài, trong đó có cả Trung Quốc và Việt Nam đã ký vào bản Tuyên
Ngôn, không thể biện luận dối trá rằng nhân quyền của chúng tôi khác
với nhân quyền Tây phương, nhằm tước đoạt quyền làm người của dân.
Nhà nước nào càng đi gần với bảng giá trị chung và tôn trọng người
dân, xã hội của nhà nước đó càng phát triển trong hoà bình và ổn định.
Hiến pháp dựa vào toàn dân với những giá trị chung của nhân loại thì
lâu bền; dựa vào đảng và những người được đảng công nhận là nhân dân sẽ
sớm bị đào thải. Hành động chỉ công nhận nhân dân theo định nghĩa của
đảng còn tạo ra phân biệt đối xử, gây chia rẽ mọi tầng lớp quốc dân,
không thể đưa đất nước đến phát triển và ổn định lâu dài.
Tạ Dzu 29-10-2013
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA
--------------------------------------------
(*) Trần Thanh Hiệp. Việt Nam Trên Đường Đi Tới Tương Lai Dân Chủ Hoá. Tủ Sách Thái Bình Dương: Paris 2012, 11-13.
No comments:
Post a Comment