Wednesday, November 13, 2013

“TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM KHỐN CÙNG”



HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC BÁO TIN:








LUẬT SƯ TRẦN DANH SAN,

NGƯỜI ĐÃ HIÊN NGANG  ĐỌC

“TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM KHỐN CÙNG”

 NGÀY 23-4-1977 TRƯỚC MẶT CÔNG AN CỘNG SẢN VÀ ĐỒNG BÀO

TẠI VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG SÀI GÒN.

ĐÃ TỪ TRẦN LÚC 11 AM NGÀY 11-11-2013 TẠI LITTLE SAIGON.

Tiếng nói hiên ngang dõng dạc của Người Chiến sĩ Nhân Quyền LS Trần Danh San đã làm chấn động dư luận Quốc nội và Quốc Ngoại vào thời điểm chế độ CS bạo tàn đã xử tử trên 300 Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam.

Tập đoàn Việt gian CS bất nhân hại dân bán nước
sẽ phải chịu trách nhiệm về tội ác “Trời không dung, Đất chẳng tha”
 trước nhân dân và lịch sử trong một ngày không xa.

HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM


PHẠM TRẦN ANH


Posted on 12/11/2013by minhhieu90
Monday, November 11, 2013 6:32:47 PM

WESTMINSTER - Luật Sư Trần Danh San, người, vào ngày 23 Tháng Tư, 1977, đứng trước thềm nhà thờ Ðức Bà Sài Gòn đọc bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng,” vừa qua đời lúc 1 giờ 30 sáng ngày 11 Tháng Mười Một, 2013, tại tư gia ở Westminster, California, thọ 77 tuổi.

Nhắc đến Luật Sư Trần Danh San, nhiều người nhớ đến ông như một luật sư kinh nghiệm, tài giỏi, đã cùng Luật Sư Triệu Bá Thiệp viết và đọc bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên của Việt Nam vào năm 1977, chưa đầy 2 năm sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam.

Luật Sư Trần Danh San (trái) và luật sư Triệu Bá Thiệp, 2 đồng tác giả “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Nam Khốn Cùng,” trong một sinh hoạt tại Little Saigon năm 2011. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Trong một lần trả lời phỏng vấn của Người Việt năm 2011, Luật Sư Trần Danh San kể lại thời điểm đọc bản Tuyên Ngôn: “Chúng tôi gồm hơn 10 luật sư trước 1975 đang hành nghề tại Huế và Sài Gòn đã hẹn nhau chia làm hai ngả tiến theo hai đường tập trung trước nhà thờ Ðức Bà vào chiều ngày 23 Tháng Tư. Chúng tôi đã dùng một cái loa phóng thanh qua một máy ghi âm nhỏ để đọc lên bản Tuyên Ngôn. Ngay lúc đó công an ập đến bắt chúng tôi về Tổng Nha Cảnh Sát cũ rồi sau đó giải về Phan Ðăng Lưu.”

Bản Tuyên Ngôn kêu gọi những người nông dân trên thế giới hãy hướng về Việt Nam, để thấy người nông dân Việt Nam phải lao động cực nhọc suốt ngày với bụng đói vì hoa màu làm ra mà không được sở hữu.Bản tuyên ngôn cũng kêu gọi công nhân trên thế giới hãy thấu hiểu thân phận công nhân Việt Nam đang phải làm việc cật lực để “dâng” lên đảng, lên lãnh tụ Cộng Sản, máu và mồ hôi nước mắt của họ.Bản tuyên ngôn cũng kêu gọi những nhà truyền giáo, khoa học gia, triết gia, văn nghệ sĩ, trí thức hãy ngưng tụng kinh, bước ra khỏi những tháp ngà nghiên cứu, bẻ gãy ngòi bút sáng tác mà hướng về Việt Nam, nơi nhà thờ, chùa chiền tự viện biến thành các trụ sở hợp tác xã, nơi mà các định luật khoa học bị bóp méo, nơi mà các văn nghệ sĩ trí thức chỉ có mỗi việc làm là tung hô nhà nước, tung hô đảng và lãnh tụ.

Bản tuyên bố kêu gọi các lực lượng văn minh trên thế giới đứng dậy, Liên Hiệp Quốc phải can thiệp để bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền được tôn trọng, để con người được bảo vệ…
Trong bức thư gởi đến Người Việt, cựu Thẩm Phán Phan Quang Tuệ viết rằng: “Anh San là một luật sư kinh nghiệm, tinh  thông luật pháp, hùng biện. Anh là một nhà tranh đấu nhân quyền kiên quyết, dũng cảm &” và là “một người bạn hào sảng, phóng khoáng, ân cần.”
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Của Những Người Việt Khốn Cùng, theo lời Thẩm Phán Phan Quang Tuệ, “là bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.”
Luật sư Trần Danh San bị Cộng Sản giam cầm 12 năm. Ông vượt biên sang Hoa Kỳ năm 1992.
Theo lời anh Trần Ðăng, con trai út của Luật Sư Trần Danh San, tang lễ sẽ được tổ chức tại PeekFamily  Funeral  Home. Lễ viếng bắt đầu vào ngày 18 Tháng Một Mười. Lễ hỏa thiêu vào ngày 19 Tháng Mười Một(Ð.B.)
——————————————————–

Tài liệu của Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam

LTS - Cách đây 34 năm, vào ngày 23 tháng 4, 1977, tại công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn, Luật Sư Trần Danh San, nhân danh Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, tuyên đọc bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng.”

Ðây là một hành động can đảm của Luật Sư San và các đồng nghiệp luật sư trong Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, ngay giữa lúc mà chế độ cộng sản còn đang rất hung hãn sắt máu trong việc áp đặt nền độc tài chuyên chế lên toàn thể lãnh thổ miền Nam sau năm 1975.
Nhật báo Người Việt xin đăng tải toàn văn bản Tuyên Ngôn này, kèm theo tài liệu “ Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu,” cũng của Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam, công bố vào ngày 23 tháng 4, 1977 nói trên.
***
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng
Văn bản “Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Việt Nam Khốn Cùng,” do 2 Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp ký tên, được tuyên đọc tại công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn, ngày 23 tháng 4, 1977.


Chúng tôi những người Việt Nam khốn cùng, với tàn lực còn lại với tinh thần tàn phế, quyết đấu tranh bằng con đường bất bạo động để kêu gọi lương tâm nhân loại, các lực lượng của thế giới văn minh, hãy lắng nghe những lời cầu cứu thảm thiết của những kẻ hấp hối.

- Tàn lực vì chúng tôi ăn đói và sẽ chết đói.

- Tinh thần tàn phế vì chúng tôi không được sống và suy tưởng như con người.

Chúng tôi buộc phải cúi đầu khom lưng tung hô vạn tuế chủ nghĩa – một chủ nghĩa đã lỗi thời và chống lại con người. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ con người để thức tỉnh bọn đao phủ mù quáng và tham tàn. Vì chỉ có con đường bất bạo động mới tránh khỏi các cuộc thảm sát huynh đệ tương tàn và khỏi làm nhơ bẩn tấm lòng trong trắng của những người Việt Nam khốn cùng.

Hỡi các nông dân trên thế giới hãy hướng về Việt Nam – nơi mà người nông dân phải cực nhọc suốt ngày với bụng đói. Hoa màu của họ bị tịch thâu nhân danh quy luật duy vật sử quan. Con trâu sau khi cày còn được nghỉ chứ người nông dân Việt Nam buộc phải theo dõi các buổi học tập nhồi sọ vô tận.

Hỡi các công nhân trên thế giới, các bạn có thấu hiểu thân phận của người công nhân Việt Nam không? Người công nhân Việt Nam phải theo chế độ “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ.” Ngày nghỉ họ buộc phải làm gấp đôi để dâng lên đảng, lên lãnh tụ mồ hôi, máu, và nước mắt của họ. Quyền thiêng liêng nhất của công nhân là quyền đình công, quyền này đã bị tước đoạt. Mọi ý kiến và hành động không theo khuôn mẫu sát của đảng đều đương nhiên bị coi như hành động phá hoại, gián điệp.

Hỡi các nhà truyền giáo, các khoa học gia, các triết gia, các văn nghệ sĩ, các trí thức, những ai đang tụng kinh hãy ngừng lại, những ai đang say mê nghiên cứu trong tháp ngà, hãy tung cửa ra, những ai đang sáng tác với ngòi bút, hãy bẻ gãy nó đi, tất cả hướng về Việt Nam – nơi mà chùa và nhà thờ đã bị biến thành hội trường để tuyên truyền chính trị – nơi mà các định luật khoa học bị móp méo để thỏa mãn chủ nghĩa – nơi mà các văn nghệ sĩ chỉ còn một việc duy nhất là tung hô Nhà nước theo lệnh của đảng.

Các vị và các vị hơn ai hết đã hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình cho Lòng tin, Sự thật, Công lý, Hòa bình và Tiến bộ, các vị không có thể làm ngơ quay lưng lại thảm họa Việt Nam trong đó có con người Việt Nam khốn cùng đang bị đày đọa trong xác thịt và câu thúc trong tinh thần. Thảm trạng này là do một thiểu số – bọn đảng viên và tay sai của chúng – muốn áp lên dân tộc khốn cùng này là những ảo mộng điên khùng nhất, quỉ quái nhất mà nhân loại chưa từng thấy. Các lực lượng văn minh trên thế giới hãy đứng dậy.

Không còn chờ đợi gì nữa!

Liên Hiệp Quốc phải can thiệp cấp thời để áp dụng và áp dụng triệt để Bản Quốc Tế Tuyên Ngôn Nhân Quyền đối với những người Việt Nam khốn cùng chiếu theo sự quy định của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.

Luật Sư Trần Danh San
(ký tên)
Luật Sư Triệu Bá Thiệp
(ký tên)
23 tháng 4, 1977
***
Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu

Văn bản “Vì Sao Chúng Tôi Tranh Ðấu,” do 2 Luật Sư Trần Danh San và Triệu Bá Thiệp ký tên, được tuyên đọc tại công trường Nhà Thờ Ðức Bà Sài Gòn, ngày 23 tháng 4, 1977.

- Chúng tôi đấu tranh để trả lại nụ cười cho trẻ thơ. Các cơn đói đã giết nụ cười hồn nhiên của chúng. Chúng phải nói dối để cha mẹ chúng thoát khỏi các cuộc tra vấn của công an.

- Chúng tôi đấu tranh để giành lại sự ấm cúng kín đáo của gia đình. Nay, thay thế vào đó là các buổi sinh hoạt tập thể căn cứ trên nguyên tác phê và tự phê để buộc chúng tôi phải lên án nhau. Thực chất của nó là Tòa Án Nhân Dân thu nhỏ, diễn ra hằng ngày dưới sự chủ tọa của công an khu phố.

- Chúng tôi đấu tranh để khỏi phải bị chứng kiến thảm trạng trong đó tiếng nói con người đã biến thành sự rên xiết vì sợ hãi và đói khổ. Quyền cuối cùng của con người là quyền than thân trách phận. Quyền này cũng bị tước đoạt vì làm như vậy có nghĩa là mất tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Ðảng. Chỉ riêng điều này cũng đủ để tống giam chúng tôi.

- Chúng tôi buộc phải đấu tranh vì đảng Cộng Sản Hà Nội buộc chúng tôi phải chấp nhận cái không thể chấp nhân được, bắt chúng tôi phải chịu đựng cái không thể chịu đựng được.

- Chúng tôi đấu tranh để giành lại hoa màu cho nông dân. Vì hoa màu của họ tịch thâu. Ðó là cách duy nhất để thực hiện kế hoạch nhà nước và tuân hành chỉ thị của đảng. Nếu người nông dân muốn xin lại một phần ít, họ phải chứng tỏ là các tín đồ trung thành của tôn giáo mới ‘Máxít-Lêninít’.

- Chúng tôi đấu tranh để giải phóng người công nhân. Họ phải thi hành chế độ ‘làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm trong ngày nghỉ’, trong khi đó lương của họ bị cắt giảm qua các phong trào được gọi là “Thi đua Xã Hội Chủ Nghĩa.”

- Chúng tôi đấu tranh cho các tu sĩ bị kết án “là con buôn thuốc phiện.” Vì chủ nghĩa cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng.

- Chúng tôi đấu tranh cho các người đang bị giam trong các trại tập trung cải tạo, mà nạn nhân đầu tiên là các trí thức. Tội duy nhất của họ là muốn được sống và suy tưởng theo như Bản Quốc Tế Tuyên Ngôn Nhân Quyền.

Là những con người và là con người Việt Nam, chúng tôi muốn tìm hiểu lịch sử dân tộc và thế giới, muốn thưởng thức văn học nghệ thuật nước nhà và các nền văn minh khác. Chúng tôi chỉ làm được điều này nếu có sự cho phép của cơ quan kiểm duyệt của đảng. Chúng tôi buộc phải tuân theo chính sách nhân hộ khẩu. Mọi vi phạm sẽ đưa đến việc cắt hộ khẩu. Ðiều đó có nghĩa là chết đó. Ðể đổi lấy thẻ hộ khẩu, chúng tôi buộc phải sống trong tình trạng quản thúc, mọi di chuyển đều bị kiểm soát. Ðó chính là bản chất của chính sách nhân hộ khẩu.
Chính vì vậy, chúng tôi phải đấu tranh. Chúng tôi đấu tranh để bênh con người, và các quyền bất khả xâm phạm của con người. Chúng tôi đấu tranh để giành lại sự tươi mát của tương lai.

Luật Sư Trần Danh San
(ký tên)
Bài điếu văn cho Trần Danh San
một A-20 vừa ra đi vĩnh viễn!

Vũ Ánh

San thân,

Dù đã đoán trước được ngày giờ này đến với bạn sẽ không xa cái ngày ở tôi và Vũ Hùng Cương đến thăm và ở lại tán gẫu với bạn cả buổi sáng tại bệnh viện. Buổi sáng hôm đó, tôi đã nghe bạn nói với người bác sĩ điều trị: “Dù muốn dù không tôi cũng sẽ ra đi, đừng lo lắng thái quá cho tôi”. Trần Danh San là như thế ! Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng không phải chỉ ở vào thời điểm bạn đã nằm trên giường bệnh vì ung thư phổi mà ngay từ thời gian luôn luôn chúng ta phải đối mặt trực diện với kẻ thù từ những năm đầu của biến cố 30-4-1975. Tôi nhớ cái ngày chúng tháo cùm mở cửa xà lim để chuyển chúng ta vào khu chuồng cọp “sang trọng” hơn ở trại B, đôi cổ chân của bạn sưng lên như chân voi, cái dấu cùm 16 lún xuống thành hai cái vòng. Chúng ta đã kiệt sức và phải bám vào nhau để lết ra gốc hàng dừa phía sau khu biệt giam chờ lên xe để chuyển trại. ( Khu biệt giam hay khu chuồng cọp phân trại B của A-20 Xuân Phước sang trọng hơn chỉ là mới hơn rộng hơn về bệ nằm nhưng chế độ ăn uống thì tệ hại hơn, nước uống được cấp phát dồi dào hơn nhưng nước muối mặn hơn nên dễ bị phù hơn. Tôi và Trần Danh San bị phù rất nặng đến mức cứ ngủ thiếp đi khi đang nói chuyện. Nếu ở ngoài các bạn bè tâm phục không liều chết tổ chức cho một người liều chết leo qua bức tường cao 4 thước có kẽm gai trước họng thượng liên của vọng gác tiếp tế thuốc vitamin B-1 cho chúng ta, chắc chúng ta cũng không thể sống nổi)

Tôi nhớ trại trưởng phân trại E của A-20, Lê Đồng Vũ mà chúng ta gọi là Tư Nhừ vì hắn mang lon thiếu tá công an, giọng lúc nào cũng nhừa nhựa như thằng say rượu, không biết nó sẽ rút cây K-54 ra bắn mình lúc nào, hỏi khích bạn: “Thế nào, anh San còn bẻ gậy chống trời nữa không”. Trần Danh San đáp tỉnh bơ: “Tất nhiên, cán bộ”. Bẻ gậy chống trời là từ ngữ đầy tính tự kiêu nhằm diễu cợt cái thế yếu của những người thua trận như chúng tôi và cái thế “trời” của những kẻ chiến thắng. Tư Nhừ hay Lê Văn “Nhừ” trả đũa một cách mỉa mai: “Hai anh trông còn khỏe lắm. Vào trong B tiếp tục tẩm bổ bằng muối và nghỉ mát để có sức bẻ gậy chống trời !”. Chữ “trời” hắn kéo dài ra mang hơi hám của một lưỡi dao có thể cắt đứt động mạch chủ của chúng ta bất cứ lúc nào.

Bạn ạ, trưa Thứ Hai vừa rồi, Tăng Ngọc Hiếu từ Minnesota gọi điện thoại cho tôi báo tin bạn không còn ở với bọn tôi trên dương thế nữa. Tôi đã biết tin này trước anh Hiếu, nhưng cũng rất xúc động vì giọng nói như khóc của anh, một người bạn tù lúc nào cũng thuần hậu và quảng đại với tất cả các anh em. Bạn có biết Hiếu nói với tôi những lời như thế nào không? Anh ấy nói: “Ông ơi thằng San nó là một tay chơi trong tranh đấu. Hình ảnh của nó rất lớn mà chính nó không bao giờ chú ý đến”. Chữ nghĩa tay chơi trong tranh đấu kể ra thì cũng khó diễn đạt. Không biết riêng bạn thì bạn nghĩ như thế nào và cũng chẳng đứa nào trong chúng tôi nhớ ra để hỏi bạn khi còn trên trần thế, nhưng cá nhân, tôi nghĩ một “tay chơi trong tranh đấu” phải là một người đầy bản lãnh, đông bạn bè tâm phục chung quanh, biết nhận lầm lỗi để sửa chữa, biết  thỏa hiệp để lùi một tiến hai, biết tổ chức và duy trì tổ chức có kỷ luật, thẳng tay loại bỏ những thành viên vô kỷ luật trong tổ chức và có đủ khả năng thương thuyết nói chuyện với những nhóm khác quan điểm để làm việc chung. Tăng Ngọc Hiếu, Vũ Hồng Cương cùng nhiều anh em khi nghe tin bạn vĩnh viễn ra đi đã gọi cho tôi và cho rằng bạn là người có đủ những đức tính này, là người đi tiên phong và can đảm nêu vấn đề nhân quyền ra trước bọn người đang điên cuồng vì chiến thắng, sẵn sàng bắn giết bất cứ ai đi ngược lại suy nghĩ của họ chứ không phải trước một chính quyền chuyên chính đã bớt chuyên chính hơn như chính quyền Việt Nam ngày nay sau khi Hà Nội đã nhận những cái tát đích đáng của dư luận thế giới bên ngoài.

Nhưng bọn tôi vẫn nghĩ rằng cái buổi sáng ở bệnh viện Garden Grove cũng là buổi không hẹn trước mà nên. Hôm ấy tôi thấy bạn tỉnh táo lắm, đi lại được, đã ngồi dậy được, bộ nhớ của bạn “on” trở lại. Bạn nói đủ thứ chuyện quá khứ, hiện tại và cả dự phóng về tương lai. Bạn nhớ tên từng khuôn mặt, tính tình của nhóm anh em tương đối hiểu nhau ở trại A-20, từ Tăng Ngọc Hiếu, Hiếu “đầu bạc”, Ngọc “đen”, Nhì “chính huấn”, Hải “bầu”, Hải “cà”, Ngô Quốc Việt “pilot”, Phụ “dù”, Hai, Mỹ, Tường “dù”, Sơn Hồng Đức, Trần Vinh, Cái Trọng Ty, Võ Long Sơn Hải, Mai Đức Phi cho tới Vũ Hồng Cương, Lương Văn Ngọ, Bùi Đạt Trung tức Trung “điên” (San còn phán: Lão ấy chả điên chút nào), Vũ Đức Nghiêm, Khuất Duy Trác, Võ sư chưởng môn Vovinam Lê Sáng, ông Châu Sáng Thế (Hồi giáo), các linh mục Nguyễn Văn Vàng, Phan Văn Trọng, Nguyễn Luân, Thượng tọa Thích Huệ Đăng, Quách Văn Trung, Trần Công Linh (BĐQ), Tài “sún”, Nhan Hữu Hậu (tùy viên của nhiều đời thủ tướng VNCH), Trịnh Tùng, Tư “rè” Nguyễn Ngọc Tiên, Lê Thái Chân, Tống Phước Hiến, Lê Quang Minh, Khúc Thừa Văn (cựu DB/VNCH), cụ Nguyễn Duy Giá (cựu Tổng Đốc), ông Võ Văn Hải (chánh văn phòng của Tổng Thống Diệm), Trần Quí Phong, Khúc Thừa Văn (cựu DB/VNCH), Nguyễn Chí Thiệp, Phạm Trần Anh và còn rất nhiều người khác. Không hỏi thì thôi nhưng nếu hỏi đến một anh em nào, bạn nói ra vanh vách.

San thân,

Tôi đã đến thăm nhiều đồng đội của chúng ta lần cuối cùng trước khi họ trở thành người thiên cổ. Cuộc viếng thăm nào trong hoàn cảnh ấy cũng buồn và có những giọt lệ của tuổi già. Chẳng hạn như lần tôi và Cương thăm bạn ở khu săn sóc đặc biệt trong khi bạn chờ đợi kết quả thử nghiệm cuối cùng ở một dưỡng đường trên đường College. Lần ấy, chỉ có bạn là vui, chiếc máy cassette trong bạn hoạt động với công xuất tối đa, nhưng chúng tôi thì gần như cạn công xuất. Tuy nhiên, khi tình trạng của bạn được chính thức coi như hết thuốc chữa và được chuyển về bệnh viện Garden Grove, cuộc họp mặt tay ba giữa Cương, tôi và bạn trở thành cuộc gặp mặt nhau lần cuối cùng. Bạn nhắc tới Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền một tác phẩm tiên phong soạn chung với đồng nghiệp và cũng là bạn thân của mình là luật sư Triệu Bá Thiệp mang ra đọc trước nhà thờ Đức Bà ngày 23-4-1977 và bản tuyên ngôn này đã được bạn viết lại trong số báo Hợp Đoàn đầu tiên chúng ta phổ biến ngầm trong trại cải tạo A-20 Xuân Phước. Trong cuộc gặp ấy, tôi nhắc với bạn rằng không ai tránh được những yếu điểm của bản thân và bạn cũng vậy. Nhưng chung cuộc thì bạn cũng đã là người làm toàn vẹn nhất nghĩa vụ đối với vùng đất mà chúng ta lớn lên, học hành, làm việc và chiến đấu. Những việc làm của bạn, của tôi và những anh em khác không mang lại sự thành công như chúng ta mong muốn, nhưng ít ra cũng từ những việc làm đó, chúng ta đã khẳng định được nhân cách của mình, đứng thẳng lưng để đối đầu trực tiếp với cường quyền. Và nhất là về một mặt nào đó, bạn đã là người đi tiên phong một cách can đảm và không tính toán thiệt hơn cho cá nhân mình, gia đình mình trong việc đòi hỏi quyền thiêng liêng của con người phải được tôn trọng chỉ 2 năm sau khi những người thắng trận điều hành đất nước bằng một chính sách hẹp hòi, kỳ thị và rừng rú, chà đạp lên quyền sống của mọi người.

San thân,

Câu chuyện về bạn có thể viết được một cuốn tiểu sử rất dày về đời tư, đời công và đời tù của một nhà tranh đấu. Nói như thế có nghĩa là bạn đã sống từng trải, đã là một ngôi sao trong nghề nghiệp của chính bạn, đã khôn khéo trong cách ứng xử với thế nhân, đã có một vài thiếu sót trong nghĩa vụ đối với gia đình nhưng trong đời công bạn đã làm việc và chiến đấu không biết mệt mỏi góp phần mưu cầu kiến tạo một xã hội dân sự tốt đẹp, trọng pháp và quyền con người được tôn trọng.

Mong bạn về cõi bình yên và sống ở một thế giới khác thênh thang hơn, không còn chiến tranh và cũng chẳng làm gì còn thù hận. Bạn xứng đáng được hưởng một “cõi” như thế. Cái phúc phần đáng nói nhất bạn để lại cho trần thế này là tiếng nói tha thiết nhất của một người yêu nước và yêu con người qua bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1977 mà bạn và luật sư Triệu Bá Thiệp là đồng tác giả mà kết quả của việc phổ biến nó khiến bạn phải trả cái giá của tù đầy lâu dài. Bạn cứ yên tâm rằng vắng bóng bạn, chúng tôi vẫn còn mãi mãi nhớ đến San “lùn” của A-20 Xuân Phước ngày nào và tôi sẽ nói với những đứa con đã trưởng thành và làm nên của bạn rằng bố San là người hùng của chúng tôi và cũng là người hùng của chính các cháu đó. (VA)

No comments:

Post a Comment